Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban chỉ đạo; Trần Lưu Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hải Phòng chủ trì Hội nghị. Tham dự có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, Ban Chỉ đạo, Tổ Biên tập Tổng kết Nghị quyết; đại diện Lãnh đạo các ban, bộ, ngành; đại diện Thường trực các Thành ủy, Tỉnh ủy vùng đồng bằng sông Hồng.
Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban chỉ đạo phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị
Phát biểu chào mừng Hội nghị, đồng chí Trần Lưu Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hải Phòng bày tỏ vui mừng vì Hải Phòng được Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết, Ban Kinh tế Trung ương lựa chọn phối hợp, tổ chức Hội nghị “Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 14/9/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; Kết luận số 13-KL/TW ngày 28/10/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW”. Đồng chí Trần Lưu Quang khẳng định, cách đây 17 năm, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị Quyết 54-NQ/TW cho các tỉnh thành vùng đồng bằng sông Hồng. Đây là Nghị quyết rất quan trọng để các tỉnh, thành, trong đó có Thành phố Hải Phòng có cơ sở để tích cực triển khai, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Từ khi có Nghị quyết 54, Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng luôn xác định và thống nhất quan điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo: Đó là xây dựng, phát triển Thành phố không chỉ cho Hải Phòng mà còn cho khu vực và cả nước; đồng thời, định hướng xây dựng, phát triển Hải Phòng không chỉ cho nội tại, địa giới hành chính Thành phố mà phải đặt trong mối liên kết, tạo sự lan tỏa tới các tỉnh, thành phố lân cận. Đồng chí Trần Lưu Quang cũng mong muốn, thông qua Hội nghị Tổng kết Nghị quyết này, Hải Phòng sẽ học tập được nhiều kinh nghiệm có giá trị, nhằm góp phần xây dựng chủ trương, định hướng mới để phát triển mạnh mẽ hơn nữa cho Hải Phòng cũng như các địa phương khác và cho cả vùng.
Đồng chí Trần Lưu Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hải Phòng phát biểu chào mừng tại Hội nghị
Tại Hội nghị, đồng chí Nguyễn Duy Hưng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng Ban chỉ đạo báo cáo tóm tắt Dự thảo Báo cáo Tổng kết Nghị quyết, theo đó, thực hiện Nghị quyết 54-NQ/TW và Kết luận 13-KL/TW của Bộ Chính trị, những năm qua, các cấp, các ngành nhất là các địa phương trong vùng đã nhận thức ngày càng rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng và khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế của vùng, khẳng định vai trò là vùng kinh tế động lực, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của cả nước. Một số địa phương phát triển bứt phá, trở thành điểm sáng trong vùng và cả nước. Kinh tế vùng tăng trưởng khá, bình quân giai đoạn 2005 - 2020 đạt 7,94%/năm, cao hơn bình quân cả nước với chất lượng được cải thiện dựa nhiều hơn vào năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP); quy mô kinh tế tăng nhanh, năm 2020 đạt 2,37 triệu tỷ đồng, chiếm 29,4% tổng GDP cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt 103,6 triệu đồng/người/năm, gấp 1,3 lần bình quân cả nước.
Đoàn Chủ tọa Hội nghị
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực với vai trò trụ cột của các khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) tăng mạnh, chiếm 31,4% tổng vốn FDI của toàn quốc. Đô thị phát triển nhanh, tỷ lệ đô thị hóa trên 41%. Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt thành tựu nổi bật, 99,2% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Kinh tế biển phát triển khá, đặc biệt Hải Phòng và Quảng Ninh dần trở thành trung tâm kinh tế biển lớn. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ phát triển mạnh mẽ, đi đầu trong thực hiện các đột phá chiến lược và đổi mới mô hình tăng trưởng. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tập trung đầu tư và phát triển khá đồng bộ, hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông, hạ tầng khu, cụm công nghiệp; phát huy tốt vai trò của các hành lang, vành đai kinh tế. Quản lý, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường được chú trọng; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu. Lĩnh vực văn hóa - xã hội được quan tâm phát triển; nhiều giá trị văn hóa được bảo tồn và phát huy; chất lượng giáo dục - đào tạo và chăm sóc sức khỏe người dân được nâng lên rõ rệt. Chú trọng đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cơ bản đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, tăng nhanh tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ. Khoa học - công nghệ được ứng dụng mạnh mẽ, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân trong vùng được nâng lên rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh xuống còn 0,86%. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước được nâng cao. Trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Những thành tựu đạt được đã khẳng định Nghị quyết 54-NQ/TW là chủ trương đúng đắn của Đảng và đã thực sự đi vào cuộc sống.
Đồng chí Trần Sỹ Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội phát biểu tại hội nghị
Tuy nhiên, kinh tế - xã hội vùng còn những hạn chế, bất cập. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; phát triển không đồng đều các địa phương trong vùng. Chất lượng tăng trưởng chưa cao, vẫn phụ thuộc nhiều vào vốn và lao động. Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế còn chậm, sản phẩm chủ yếu ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị. Quy hoạch không gian phát triển còn bất cập; tình trạng quy hoạch “treo” khá phổ biến; các khu công nghiệp thiếu liên kết, chưa hình thành được các cụm liên kết ngành. Hệ thống đô thị phát triển chưa hợp lý, thiếu kết nối, chưa bền vững, quy hoạch đô thị có nhiều hạn chế; việc cải tạo chung cư cũ và di dời các trường đại học, bệnh viện ra khỏi trung tâm Hà Nội gặp nhiều khó khăn. Đầu tư còn dàn trải, hiệu quả chưa cao, nhiều dự án kéo dài, gây lãng phí nguồn lực. Khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực cho phát triển. Quản lý đất đai, tài nguyên còn nhiều hạn chế; tình hình ô nhiễm môi trường ngày càng phức tạp. Phát triển văn hoá - xã hội nhiều mặt còn hạn chế; chất lượng lao động cải thiện chậm; chất lượng dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân chưa đồng đều ở các địa phương. Liên kết, hợp tác giữa các địa phương trong vùng chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức đảng còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. An ninh trật tự ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Nhiệm vụ phát triển thành phố Nam Định thành đô thị hạt nhân của tiểu vùng Nam đồng bằng sông Hồng và xây dựng Khu kinh tế tổng hợp Vân Đồn, Quảng Ninh chưa hoàn thành…
Đồng chí Ngô Đông Hải, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình phát biểu tại hội nghị
Với thực tế như vậy, phát chỉ đạo Hội nghị, đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo nhấn mạnh, phát triển vùng là một chủ trương lớn của Đảng. Nhằm triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Bộ Chính trị chỉ đạo tiến hành tổng kết các Nghị quyết của cả 6 vùng kinh tế đã được ban hành cách đây gần 20 năm và sẽ ban hành các Nghị quyết mới nhằm định hướng cho phát triển các vùng đến 2030, định hướng đến 2045. Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Kinh tế Trung ương được giao chủ trì phối hợp các Bộ ngành và các địa phương triển khai tổng kết thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW và Kết luận số 13-KL/TW để báo cáo Bộ Chính trị trong tháng 10/2022.
Đồng chí Nguyễn Anh Tuấn, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh phát biểu tại Hội nghị
Đồng chí nêu rõ, vùng đồng bằng sông Hồng là một trong 06 vùng kinh tế - xã hội của cả nước, gồm 11 tỉnh, thành phố, trong đó có 02 thành phố trực thuộc Trung ương. Trong quá trình tổng kết, Ban Kinh tế Trung ương đã thành lập Ban Chỉ đạo, ban hành Kế hoạch triển khai, đề nghị 20 Bộ ngành và 11 địa phương trong vùng tiến hành tổng kết theo Đề cương của Ban Chỉ đạo; đặt hàng nghiên cứu chuyên sâu các Viện, Trường đại học, Trung tâm nghiên cứu, các chuyên gia, nhà khoa học và tổ chức khảo sát thực tế tại một số địa phương trong vùng. Mặc dù thời gian rất gấp nhưng các Bộ ngành và các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng đã khẩn trương tổ chức tổng kết thực hiện Nghị quyết 54-NQ/TW theo Kế hoạch đề ra và hoàn thành Báo cáo tổng kết của địa phương, đơn vị mình gửi về Ban Chỉ đạo. Trên cơ sở các Báo cáo tổng kết của 20 ban cán sự đảng các bộ, ban, ngành, cơ quan Trung ương và Báo cáo tổng kết của 11 địa phương vùng đồng bằng sông Hồng; kết quả Hội thảo, khảo sát thực tế và ý kiến của các Viện, Trung tâm nghiên cứu, các Trường Đại học; Thường trực Tổ Biên tập đã tiến hành chắt lọc, tổng hợp, xây dựng Dự thảo Báo cáo tổng kết và đã gửi xin ý kiến các Bộ ngành và các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng.
Đồng chí Nguyễn Duy Hưng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng Ban chỉ đạo báo cáo tóm tắt
Dự thảo Báo cáo Tổng kết Nghị quyết
Đồng chí Trần Tuấn Anh đề nghị các đồng chí Thường trực Tỉnh ủy, Thành ủy, lãnh đạo các Bộ ngành và các đại biểu tham gia Hội nghị tập trung thảo luận, cho ý kiến trực tiếp về một số vấn đề trong Dự thảo Báo cáo tổng kết, nhất là những đề xuất, kiến nghị thêm về nhiệm vụ, giải pháp đột phá cho vùng. Đánh giá sâu và nhiều chiều về các tiềm năng, lợi thế, điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ phát triển của vùng, các địa phương, đặc biệt là vị trí, vai trò của vùng đồng bằng sông Hồng với cả nước để đề xuất bổ sung, điều chỉnh quan điểm phát triển và nhiệm vụ cho từng ngành, lĩnh vực phù hợp trong thời gian tới, ví dụ như chiến lược phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa; lĩnh vực môi trường; lĩnh vực văn hóa.... Phát hiện các vấn đề có ý nghĩa và tác động sâu rộng đến phát triển kinh tế vùng, địa phương chưa được đề cập hoặc cần làm sâu sắc hơn tại Dự thảo Báo cáo nhất là các tác động của cách mạng khoa học - công nghệ, các xu thế kinh tế mới và hội nhập kinh tế sâu rộng của vùng và cả nước.
Đồng chí Đặng Hoàng An, Thứ trưởng Bộ Công Thương tham gia ý kiến
Tại Hội nghị, các đại biểu là đại diện các ban, bộ, ngành Trung ương, đặc biệt là đại diện các địa phương đã phát biểu tham luận về thành tựu đạt được, hạn chế, tồn tại, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm sau 17 năm thực hiện của toàn vùng và từng địa phương; về bối cảnh tình hình sắp tới, tình hình quốc tế và khu vực, các vấn đề an ninh truyền thống, phi truyền thống tác động đến nước ta nói chung và toàn vùng nói riêng; về quan điểm, mục tiêu, chỉ tiêu và các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trên cơ sở chủ trương, định hướng phát triển vùng và các ngành, lĩnh vực tại Nghị quyết Đại hội XIII, các Nghị quyết chuyên đề khác của Trung ương, các Nghị quyết đại hội của các tỉnh, thành phố toàn vùng và bối cảnh tình hình mới.
Đồng chí Trần Duy Đông, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo tham gia ý kiến
Đồng chí Trần Sỹ Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội: Đề nghị Trung ương sớm hoàn thành thẩm định, phê duyệt quy hoạch cho các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2020, tầm nhìn đến 2050. Bởi Thủ tướng đã phê duyệt tại Quyết định 492/QĐ-TTg ngày 19/4/2022 về việc phê duyệt Quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng thời ký 2021-2020, tầm nhìn đến 2050. Đây là cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý để các tỉnh, thành phố trong vùng phát triển quy hoạch tỉnh; nâng cao chất lượng quy hoạch theo hướng bền vững; khuyến khích phát triển đô thị xanh, thông minh trong đó Hà Nội trở thành đại đô thị thông minh dẫn dắt cả vùng.
Đồng chí Tạ Quang Đông, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham gia ý kiến
Đồng chí Ngô Đông Hải, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình: Đề nghị làm sâu sắc hơn về những kết quả đạt được về liên kết vùng. Thực tế trong thời gian qua, việc liên kết vùng đã được các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng chủ động liên kết, chủ động kết nối tạo ra không gian phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ.
Đồng chí Đặng Hoàng An, Thứ trưởng Bộ Công Thương cho rằng: Tư duy về liên kết vùng đã được Báo cáo tổng kết Nghị quyết làm rõ. Tuy nhiên, đồng chí cũng đặt vấn đề là làm thế nào biến tư duy liên kết vùng vào thực tế triển khai thực hiện. Theo đó, cần làm rõ quy hoạch vùng, bố trí không gian phát triển cho vùng để tránh đứt đoạn. Trong quy hoạch nếu không bố trí các mạng lưới khu công nghiệp, trường đại học, trung tâm logicstic thì sẽ thất bại về liên kết vùng. Nếu không xác định được cái nào phục vụ địa phương, cái nào phục vụ nội vùng và quốc gia thì sẽ không đạt được mục tiêu tổng thể...
Phát biểu kết luận, đồng chí Trần Tuấn Anh đánh giá cao sự chuẩn bị nghiêm túc, chất lượng của Thường trực Tổ Biên tập; sự tham gia, đóng góp ý kiến tích cực, tâm huyết, trách nhiệm của các đồng chí lãnh đạo Bộ ngành, Thường trực Tỉnh ủy, Thành ủy các địa phương trong vùng, đặc biệt là sự phối hợp của Thành ủy Hải Phòng.
Đồng chí Lê Đình Thọ, Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải tham gia ý kiến
Đồng chí đánh giá cao các ý kiến sôi nổi, thẳng thắn, trách nhiệm, xuất phát từ thực trạng phát triển vùng, địa phương và từ thực tiễn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành của các đại biểu, cho rằng các ý kiến đã cung cấp thêm các thông tin và là nguồn tư liệu quý, góp phần quan trọng giúp Ban Chỉ đạo, Thường trực Tổ Biên tập tiếp tục bổ sung, hoàn thiện để Báo cáo phản ánh khách quan, toàn diện hơn về những thành tựu đã đạt được sau 17 năm thực hiện Nghị quyết 54-NQ/TW; những khó khăn, hạn chế; nguyên nhân chủ quan, khách quan, bài học kinh nghiệm; đánh giá bối cảnh tình hình mới và từ đó đề xuất các ý kiến về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhằm phát triển nhanh và bền vững vùng đồng bằng sông Hồng trong thời gian tới.
Thay mặt Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết, đồng chí Trưởng Ban Kinh tế Trung ương tóm lược lại các vấn đề đã trao đổi, thảo luận và cơ bản được thống nhất và cần tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo để hoàn thiện Báo cáo tổng kết Nghị quyết 54 như:
Đồng chí Đỗ Xuân Tuyên, Thứ trưởng Bộ Y tế tham gia ý kiến
Thứ nhất, Hội nghị đã thống nhất cao về phương pháp tiếp cận, nghiên cứu, bố cục, kết cấu của Báo cáo. Dự thảo Báo cáo tổng kết Nghị quyết 54 do Thường trực Tổ biên tập chuẩn bị đảm bảo bám sát Đề cương được Ban Chỉ đạo đã thông qua, phù hợp với thực tiễn phát triển của vùng; cập nhật được các chủ trương, nhiệm vụ của vùng đồng bằng sông Hồng được đề ra tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 được thông qua tại Đại hội XIII của Đảng và các Nghị quyết chuyên đề của Trung ương ban hành gần đây.
Thứ hai, Hội nghị cơ bản thống nhất: Nội dung Dự thảo Báo cáo tổng kết phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra của Ban Chỉ đạo; là kết quả tổng hợp, chọn lọc khoa học, nghiêm túc từ Báo cáo của các Bộ ngành, các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng, các chuyên đề nghiên cứu chuyên sâu của các Viện, Trường đại học, Trung tâm nghiên cứu, các chuyên gia, nhà khoa học và phản ánh khách quan, toàn diện mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Hồng sau 17 năm triển khai Nghị quyết 54-NQ/TW.
Thứ ba, Hội nghị thống nhất: Dự thảo Báo cáo cần làm sâu sắc hơn về những thành tựu đạt được của vùng đồng bằng sông Hồng, ngoài chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp của Đảng, Nhà nước là sự lãnh đạo chỉ đạo toàn diện của cấp ủy và sự tích cực chủ động, sáng tạo vươn lên của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong vùng. Ngoài ra, Báo cáo cần làm sâu sắc hơn các tiềm năng, lợi thế đặc thù, những khó khăn, thách thức của từng địa phương và các tiểu vùng để đề xuất ban hành các chính sách trúng, đúng và kịp thời cho từng tỉnh, tiểu vùng.
Thứ tư, Hội nghị thống nhất: Báo cáo cần làm rõ hơn vị trí, tầm quan trọng của vùng đồng bằng sông Hồng trong bối cảnh mới, tình hình mới nhất là vai trò động lực của vùng với cả nước; làm sâu sắc hơn về các xu thế phát triển kinh tế mới tác động đến vùng như: phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, giáo dục - đào tạo, kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, xung đột địa chính trị, dịch bệnh... Trên cơ sở đó đề xuất Bộ Chính trị các chủ trương, định hướng và nhiệm vụ, giải pháp nhằm khắc phục hạn chế, phát huy thế mạnh tạo bước phát triển mới trong thời gian tới, đặc biệt là về các cơ chế, chính sách đặc thù về thuế, tài chính ngân hàng… kịp thời cho từng tiểu vùng, từng không gian lãnh thổ, từng lĩnh vực, từng địa phương nhằm khai thác hiệu quả các lợi thế chung; không vì tiềm năng, lợi ích nhỏ của một vài địa phương làm ảnh hưởng đến lợi ích chung và dài hạn của vùng, nhất là trong quản lý đất đai và thu hút các nguồn lực để phát triển đô thị, phát triển các khu công nghiệp, phát triển du lịch, phát triển văn hóa, y tế... và thực hiện tốt các nhiệm vụ trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ năm, Hội nghị đã cơ bản thống nhất với các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhằm phát triển nhanh và bền vững vùng đồng bằng sông Hồng đã đề ra trong dự thảo Báo cáo, đặc biệt là cần phải thay đổi tư duy, nhận thức và tầm nhìn đối với liên kết phát triển vùng để vùng trở thành trung tâm sản xuất công nghiệp và phát triển dịch vụ hiện đại; nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn phát triển mạnh; đi đầu về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số; là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của cả nước và hệ thống đô thị thông minh, kết nối; phát huy vai trò của các Hành lang kinh tế, các Khu công nghiệp…
Thứ sáu, Hội nghị thống nhất cao với các kiến nghị, đề xuất được nêu trong Dự thảo Báo cáo nhất là các kiến nghị về ban hành Nghị quyết mới của Bộ Chính trị đối với vùng; trong đó, có các chỉ tiêu cụ thể của vùng cao hơn bình quân chung của cả nước - vùng có nhiệm vụ phải đi đầu cả nước trong thực hiện nhiều chỉ tiêu quan trọng. Thống nhất đề nghị Bộ Chính trị chỉ đạo Chính phủ cần khẩn trương hoàn thiện quy hoạch vùng để định hướng cho các địa phương và trở thành công cụ quản lý vùng, địa phương; kiến nghị sớm hoàn thiện thể chế, mô hình tổ chức, bộ máy, nguồn lực đủ mạnh để tăng cường liên kết phát triển vùng, để liên kết vùng trở thành động lực tăng trưởng cho vùng.
Đồng chí Lê Khắc Nam, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng tham gia ý kiến
Đồng chí Trần Tuấn Anh cũng yêu cầu Thường trực Tổ Biên tập tiếp tục tổng hợp các ý kiến tham gia tại Hội nghị để chắt lọc, bổ sung, hoàn thiện dự thảo Báo cáo, Tờ trình và Nghị quyết mới vừa có tính kế thừa, vừa có những đề xuất mới, phù hợp tình hình mới, trình Bộ Chính trị đảm bảo đúng thời gian, tiến độ theo Chương trình làm việc đã đề ra./.
Quang cảnh Hội nghị
Trung tâm Thông tin, Phân tích và dự báo kinh tế