(i) Nhóm quan điểm thứ nhất, nhấn mạnh vai trò, vị trí và tầm quan trọng đặc biệt của vùng đối với cả nước: “Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ có vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, nhất là về kinh tế biển và quốc phòng, an ninh biển, đảo của Tổ quốc”. Từ đó đặt ra yêu cầu đổi mới tư duy và khẳng định: “Đổi mới tư duy phát triển, tạo đồng thuận, thống nhất cao trong nhận thức và hành động; phát triển nhanh, bền vững tương xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng và các địa phương trong vùng; nâng cao trình độ và thu nhập của người dân trong vùng là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược của các địa phương trong vùng và cả nước”.
Đồng chí Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo phát biểu tại
Tọa đàm "Liên kết phát triển tiểu vùng Bắc Trung bộ trong bối cảnh mới" tổ chức tại Quảng Bình ngày 12/8/2022
(ii) Nhóm quan điểm thứ hai, đặt ra yêu cầu về sự phát triển của vùng trong tổng thể phát triển của quốc gia. Theo đó: “Phát triển vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ phải phù hợp với các chiến lược phát triển quốc gia, nhất là Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam, tập trung phát triển các ngành kinh tế biển trở thành vùng mạnh về biển, giàu từ biển”; đồng thời định hướng và làm rõ phương thức nhằm khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của vùng: “đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao hiệu quả kết cấu hạ tầng hiện có, các khu kinh tế ven biển, khu công nghiệp, hệ thống đô thị ven biển, các hành lang kinh tế, các cực tăng trưởng, các trung tâm vùng và vùng động lực”.
(iii) Nhóm quan điểm thứ ba, tập trung vào định hướng đẩy mạnh cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của vùng bảo đảm phù hợp với xu thế, điều kiện phát triển mới: “Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế biển xanh, kinh tế tuần hoàn phù hợp với điều kiện thực tế của vùng. Phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phù hợp với điều kiện thực tế của vùng”. Trên cơ sở đó, Nghị quyết đưa ra một số chủ trương để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phục vụ phát triển vùng: “Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh; thực hiện thí điểm các mô hình, cơ chế, chính sách đột phá nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển vùng và các tiểu vùng. Bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên rừng và biển; chủ động phòng, chống thiên tai và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu”.
Đồng chí Vũ Đại Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình phát biểu tại tọa đàm
(iv) Nhóm quan điểm thứ tư, đặt ra yêu cầu về phát triển bền vững. Theo đó, xác định: “Bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử, truyền thống, văn hóa của vùng. Phát triển kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; giảm nghèo bền vững, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, bãi ngang, hải đảo”. Đồng thời, nhóm quan điểm này cũng nhấn mạnh mối liên hệ khăng khít giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh và đối ngoại: “Đẩy mạnh liên kết nội vùng, giữa vùng với các vùng khác trong nước. Mở rộng quan hệ đối ngoại, nhất là với nước bạn Lào, các nước tiểu vùng sông Mê Công. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh và chủ quyền biển, đảo; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội”.
(v) Nhóm quan điểm thứ năm, nhấn mạnh về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong vùng; phát huy truyền thống văn hóa, khơi dậy khát vọng phát triển, ý chí tự lực, tự cường của nhân dân. Cụ thể: “Chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc trong vùng, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; khơi dậy khát vọng phát triển, ý chí tự lực, tự cường của nhân dân trong vùng”.
Về mục tiêu đến năm 2030: Căn cứ vào các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030; bám sát 05 quan điểm chỉ đạo nêu trên; thực trạng phát triển và tiềm năng, lợi thế của vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, Nghị quyết số 26-NQ/TW đã xác định mục tiêu phát triển vùng đến năm 2030 là: "Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ là vùng phát triển năng động, nhanh và bền vững, mạnh về kinh tế biển; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, có khả năng chống chịu cao với thiên tai, dịch bệnh và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu; có một số trung tâm công nghiệp, dịch vụ, hợp tác quốc tế lớn của cả nước với các khu kinh tế ven biển và hệ thống đô thị ven biển đạt chuẩn quốc gia và khu vực; là cửa ngõ ra biển của vùng Tây Nguyên và nước bạn Lào; là nơi các giá trị văn hoá, lịch sử và hệ sinh thái biển, đảo, rừng được bảo tồn và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao; quốc phòng, an ninh và chủ quyền biển, đảo được bảo đảm vững chắc; các tổ chức đảng, hệ thống chính trị vững mạnh; khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường”.
Các đại biểu thảo luận tại tọa đàm
Để cụ thể hóa các mục tiêu phát triển vùng đến năm 2030, Nghị quyết số 26-NQ/TW đã đưa ra 3 nhóm chỉ tiêu chính với 18 chỉ tiêu cụ thể cho phát triển vùng: (i) Nhóm chỉ tiêu về phát triển kinh tế với 7 chỉ tiêu: tăng trưởng và quy mô GRDP, tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo, tỷ trọng kinh tế số, GRDP bình quân đầu người, thu ngân sách nhà nước, tỷ lệ đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới; (ii) Nhóm chỉ tiêu về phát triển xã hội với 6 chỉ tiêu: Chỉ số phát triển con người, thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ lao động qua đào tạo, giảm nghèo, cơ sở giáo dục và y tế; (iii) Nhóm chỉ tiêu về bảo vệ môi trường với 5 chỉ tiêu chính: Tỷ lệ che phủ rừng, tỷ lệ sử dụng nước sạch theo quy chuẩn, thu gom và xử lý rác thải, nước thải.
Các nhóm chỉ tiêu cụ thể này được cụ thể hoá các chỉ tiêu về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước được đưa ra tại Đại hội Đảng lần thứ XIII và được tính toán để phù hợp với điều kiện thực tế của vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ.
Về tầm nhìn đến năm 2045: Bám sát mục tiêu phát triển vùng đến năm 2030 nêu trên và cân nhắc, dự báo phát triển vùng trong tổng thể quốc gia, Nghị quyết số 26-NQ/TW định hướng tầm nhìn đến năm 2045 cho vùng: “Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ là vùng phát triển nhanh và bền vững, mạnh về kinh tế biển; có một số trung tâm công nghiệp, dịch vụ, hợp tác quốc tế lớn ngang tầm khu vực Châu Á với các khu kinh tế ven biển hiện đại, hệ thống đô thị ven biển thông minh, bền vững, có bản sắc riêng, thân thiện với môi trường, có khả năng chống chịu cao với thiên tai, dịch bệnh và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu; là nơi các giá trị văn hoá, lịch sử, hệ sinh thái biển, đảo, rừng được bảo tồn và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đạt mức cao; quốc phòng, an ninh và chủ quyền biển, đảo được bảo đảm vững chắc; các tổ chức đảng, hệ thống chính trị vững mạnh; khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường”.
Bài 3: Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để thực hiện hiệu quả Nghị quyết 26-NQ/TW
Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế