Nghị quyết số 29-NQ/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” được ban hành trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường.
Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương trình bày về Nghị quyết 29-NQ/TW tại Hội nghị Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6
Về bối cánh quốc tế: (1) Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, tương lai tiềm ẩn nhiều rủi ro; (2) Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cùng với sự phân mảnh trong không gian kinh tế thế giới; cạnh tranh chiến lược về địa kinh tế giữa các nước lớn diễn biến phức tạp, ngày càng gay gắt hơn làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới; (3) Thương mại, đầu tư truyền thống gặp khó khăn, các hoạt động đầu tư, kinh doanh trên không gian số, thế giới ảo phát triển mạnh mẽ; (4) Sản xuất chuyển dịch mạnh sang thâm dụng tri thức, thông minh hóa, trong đó động lực phát triển quan trọng nhất là khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Các nước phát triển có thể tăng cường phong tỏa, bảo vệ công nghệ nguồn, công nghệ lõi; (5) Mạng lưới sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu được tổ chức, sắp xếp và cơ cấu lại theo hướng giảm thiểu rủi ro đứt gãy, gián đoạn, giảm tập trung vào một hay một số ít nước, đưa sản xuất về thị trường gần hoặc về chính quốc. Quá trình dịch chuyển các chuỗi cung ứng, sản xuất và dòng đầu tư tiếp tục được đẩy nhanh, làm hình thành các liên kết, hợp tác kinh tế mới quy mô khu vực và liên khu vực; (6) Các nền kinh tế trên thế giới nỗ lực vừa liên kết phát triển vừa nâng cao năng lực độc lập tự chủ; (7) Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Thành tựu khoa học công nghệ và Cách mạng công nghiệp 4.0 tiếp tục làm thay đổi sâu sắc lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thế giới, là động lực chính dẫn dắt xu thế phát triển kinh tế thế giới; (8) Biến đổi khí hậu toàn cầu diễn ra khó lường và cạnh tranh tài nguyên thiên nhiên ngày càng gay gắt; (9) Tăng trưởng xanh, phát triển bền vững đang trở thành ưu tiên hàng đầu của nhiều quốc gia và trong chương trình nghị sự của các diễn đàn kinh tế quốc tế lớn với những hành động mạnh mẽ, quyết liệt. Xu hướng xanh hoá các ngành công nghiệp, phát triển các ngành công nghiệp các-bon thấp ngày càng được quan tâm, ưu tiên thúc đẩy và là một trong những trọng tâm trong các chương trình, kế hoạch phát triển của nhiều quốc gia; (10) Trong khi đó, các mối đe doạ an ninh phi truyền thống không chỉ là vấn đề cấp bách, mà còn là vấn đề thường xuyên, lâu dài, liên quan tới toàn nhân loại. Những thách thức này thường lan tỏa rất nhanh qua nhiều quốc gia và để lại những hậu quả lâu dài, nhiều rủi ro bất ổn, bất định và khó dự báo hơn, đòi hỏi các nước phải có cách tiếp cận toàn diện, tổng thể trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Bối cảnh trong nước: Sau hơn 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ dân số vàng, tầng lớp trung lưu tăng lên nhanh, đô thị hóa và phát triển đô thị diễn ra mạnh mẽ, hệ thống kết cấu hạ tầng không ngừng được nâng cấp; Các ngành công nghiệp công nghệ cao, hoạt động dịch vụ số và nông nghiệp hiện đại phát triển nhanh, đồng bộ, ổn định trở thành nguồn lực vững chắc cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời gian tới. Dưới tác động của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nền kinh tế đang bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào động lực không có trần giới hạn là khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, mở ra cơ hội để Việt Nam thay vì “đi sau” thì có thể nỗ lực để “đi cùng”, một số ngành, lĩnh vực mũi nhọn, có thế mạnh, có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng có thể bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới.
Đất nước tiếp tục hội nhập quốc tế sâu, rộng hơn, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam tham gia đi vào thực hiện vừa tạo ra cơ hội vừa tạo thách thức lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong khi đó, nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới; Xu hướng già hoá dân số nhanh; tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá tăng mạnh; đặc biệt biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, thiên tai, dịch bệnh gay gắt, phức tạp... ngày càng tác động mạnh đến sự phát triển của đất nước.
Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, có tính chất phức tạp, không chỉ là những vấn đề của riêng Việt Nam mà còn gắn với những tác động, ảnh hưởng có tính toàn cầu, đòi hỏi chúng ta cần phải đổi mới tư duy, đặt ra những định hướng, mục tiêu phù hợp, nghiên cứu, đề xuất những nhiệm vụ, giải pháp mới, đột phá, mang tính bao trùm, tổng thể và có tính thực thi cao phù hợp bối cảnh và yêu cầu phát triển mới để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trên cơ sở đánh giá, nhận định về bối cảnh, tình hình quốc tế và trong nước nêu trên, đồng thời phân tích điều kiện, tình hình cụ thể của Việt Nam, để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận, thống nhất ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW với các quan điểm, mục tiêu như sau:
Về quan điểm: Nghị quyết đã đưa ra 5 nhóm quan điểm chỉ đạo trong thời gian tới gồm:
Nhóm quan điểm thứ nhất, làm rõ nội hàm/nhận thức về CNH, HĐH là “quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội dựa chủ yếu vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”. Quan điểm này được hình thành từ sự kế thừa và phát triển những tri thức nhân loại về quá trình phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với điều kiện thực tiễn của các quốc gia đi sau đang trong quá trình phát triển lên trình độ chung của thời đại. Điểm mới của Nghị quyết là nhận thức rõ quá trình CNH, HĐH là quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của một quốc gia và trong bối cảnh kỷ nguyên số, phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định thành công của quá trình CNH, HĐH đất nước.
Đồng thời, Đảng ta nhấn mạnh vai trò, vị trí và tầm quan trọng của CNH, HĐH với sự phát triển kinh tế - xã hội, coi “CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đây là điểm mới được nhấn mạnh trong quan điểm lần này, đó là gắn quá trình thực hiện CNH, HĐH với xây dựng nền kinh tế, quốc gia độc lập tự chủ, dựa trên nội lực của đất nước, coi nội lực là quyết định. Từ chỗ xuất phát coi công nghiệp hóa là mục tiêu phát triển, thì nay đã chuyển sang coi CNH, HĐH là phương thức để thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất nước. Việc đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước là tất yếu khách quan trong tình hình mới.
Nhóm quan điểm thứ hai, nhấn mạnh quan điểm xuyên suốt của Đảng luôn lấy con người làm trung tâm, làm chủ thể, là mục tiêu, là động lực, nguồn lực cho sự phát triển, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị cho đẩy mạnh CNH, HĐH, cụ thể là: “đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, lấy con người là trung tâm, doanh nghiệp là chủ thể”. Tiếp theo đó, luôn đặt CNH, HĐH trong tổng thế chiến lược phát triển đất nước để có cách tiếp cận toàn diện, gắn CNH, HĐH với phát triển bền vững và chú trọng giải quyết hài hoà các mối quan hệ lớn trong quá trình CNH, HĐH đất nước, cụ thể là “bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động”.
Nhóm quan điểm thứ ba, làm rõ nội dung và yêu cầu trong thực hiện CNH, HĐH đất nước trên cơ sở không đồng nhất công nghiệp hóa là con đường duy nhất để xây dựng nước công nghiệp và không đồng nhất công nghiệp hóa với phát triển công nghiệp. Theo đó: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải khai thác và phát huy tốt nhất mọi tiềm năng, lợi thế của đất nước, của từng vùng và địa phương; lợi thế của nền kinh tế đi sau và đang trong thời kỳ dân số vàng; kết hợp đồng bộ, hiệu quả giữa phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu; chuyển dịch nhanh từ gia công, lắp ráp sang nghiên cứu, thiết kế và sản xuất tại Việt Nam; tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, chú trọng đẩy mạnh dịch vụ hóa các ngành công nghiệp. Coi trọng phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến là then chốt, chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu”. Điều này thể hiện rất rõ quá trình chuyển đổi từ phát triển nền kinh tế phụ thuộc vào gia công, lắp ráp sang chủ động chế tạo, chế biến, vươn lên, làm chủ công nghệ; nhấn mạnh vai trò nền tảng, trụ đỡ của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước thông qua việc coi CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu; đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ để làm động lực cho tăng trưởng.
Cùng với việc xác định coi “chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá” đã thể hiện sự đổi mới trong tư duy thực hiện CNH, HĐH lần này đó là quá trình CNH, HĐH đất nước sẽ không thể tiến hành biệt lập, khép kín mà phải đặt trong chuỗi sản xuất - kinh doanh toàn cầu, với lợi thế của nền kinh tế đi sau, cùng với việc chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế số, Việt Nam hoàn toàn có thể “kết hợp đồng bộ, hiệu quả giữa phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu” và rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước.
Nhóm quan điểm thứ tư, nhấn mạnh lộ trình, bước đi trong thực hiện CNH, HĐH đất nước và xác định các lĩnh vực ngành nghề cần ưu tiên phát triển đặt trong mối quan hệ tổng thể với yêu cầu tập trung về nguồn lực thực hiện: Theo đó “Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần có lộ trình và bước đi cụ thể có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên nguồn lực, có các cơ chế, chính sách đột phá, phù hợp để phát trển các cực tăng trưởng, các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp hỗ trợ, các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao; tăng cường liên kết ngành và liên kết vùng”.
Tư duy lý luận của Đảng về chủ thể và nguồn lực thực hiện CNH, HĐH đất nước cũng được bổ sung và hoàn thiện, từ đó làm sâu sắc thêm vị trí, vai trò và tầm quan trọng của nguồn lực này đối với quá trình CNH, HĐH đất nước, khẳng định CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân với sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế cũng như các chủ thể khác nhau trong xã hội: “xác định nguồn lực trong nước là cơ bản, chiến lược, lâu dài và quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá; doanh nghiệp trong nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) là động lực chính, chủ đạo; doanh nghiệp FDI có vai trò quan trọng, đột phá”.
Nhóm quan điểm thứ năm, đặt ra yêu cầu trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cụ thể là: “Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, hiệu quả; khơi dậy khát vọng phát triển, tinh thần khởi nghiệp quốc gia, đổi mới sáng tạo; phát huy giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc, bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam và truyền thống của giai cấp công nhân, vai trò xung kích, đi đầu của đội ngũ tri thức và doanh nhân Việt Nam”.
Về mục tiêu và tầm nhìn: Bám sát các quan điểm chỉ đạo như đã được trình bày ở trên, đồng thời căn cứ vào các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 đã được đưa ra tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng; tiếp thu các cách đánh giá, phân loại các nước theo thông lệ quốc tế, được các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tổ chức Thương mại Thế giới, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế và hầu hết các nước trên thế giới sử dụng; trên cơ sở tiếp cận các tiêu chí của nước đang phát triển, nước phát triển; nước có thu nhập trung bình cao, nước có thu nhập cao và tiêu chí của nước công nghiệp, Nghị quyết số 29-NQ/TW đã xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2030 là:
“Việt Nam cơ bản đạt được các tiêu chí của nước công nghiệp, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đời sống của Nhân dân được nâng cao;
Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh với năng lực sản xuất mới, tự chủ, khả năng thích ứng, chống chịu cao, từng bước làm chủ công nghệ lõi, công nghệ nền của các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn;
Nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững theo hướng sinh thái, ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ tiên tiến;
Các ngành dịch vụ được cơ cấu lại đồng bộ, hiệu quả trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số với chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh được nâng cao, hình thành được nhiều ngành dịch vụ mới, có giá trị gia tăng cao”.
Trên cơ sở đó, Ban Chấp hành Trung ương đã đưa ra tầm nhìn đến năm 2045: Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực Châu Á.
Để cụ thể hóa mục tiêu tổng quát đến năm 2030, Nghị quyết đã đề ra 7 nhóm chỉ tiêu chính với 25 chỉ tiêu cụ thể để đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình cao, đạt các tiêu chí của nước công nghiệp, cụ thể là:
Nhóm chỉ tiêu tổng hợp như: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân; GDP bình quân đầu người; GNI bình quân đầu người; Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế; Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu;
Nhóm chỉ tiêu về phát triển kinh tế, ngành, lĩnh vực như: Năng lực cạnh tranh công nghiệp (CIP); Tỉ trọng công nghiệp chiếm trong GDP; Tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm trong GDP; Tỉ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo; Giá trị gia tăng công nghiệp chế tạo, chế biến bình quân đầu người; Tỉ trọng của khu vực dịch vụ chiếm trong GDP; Tỉ trọng kinh tế số chiếm trong GDP; Tỉ lệ đô thị hoá…
Nhóm chỉ tiêu về phát triển xã hội như: Chỉ số phát triển con người (HDI); Tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội; Tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ; Tỉ lệ người dân trong độ tuổi lao động được đào tạo kỹ năng số cơ bản; Tỉ lệ sinh viên trên một vạn dân.
Nhóm chỉ tiêu về bảo vệ môi trường như: Chỉ số hiệu quả môi trường (EPI); Phấn đấu đạt được các chỉ tiêu về sử dụng hiệu quả tài nguyên (đất, nước, khoáng sản), tái sử dụng, tái chế chất thải tương đương với các nước dẫn đầu ASEAN.
Các nhóm chỉ tiêu cụ thể này là sự cụ thể hoá các chỉ tiêu về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước được đưa ra tại Đại hội Đảng lần thứ XIII, đã được thảo luận, thống nhất với các cơ quan liên quan, bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước.
Bài 4: Nhiệm vụ và giải pháp thực hiện mục tiêu CNH, HĐH đất nước
Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế