Các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) vẫn yếu về chất lượng, thiếu về số lượng. Mặt khác, việc kết nối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn lỏng lẻo khiến doanh nghiệp trong nước khó tiếp cận và tham gia vào chuỗi cung ứng ngay tại thị trường nội địa.
Doanh nghiệp CNHT chỉ chiếm 0,4%
Bộ Công Thương mới đây thông báo bộ này đang nghiên cứu sửa đổi Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 3-11-2015 của Chính phủ về phát triển CNHT. Việc sửa đổi lần này nhằm khắc phục những bất cập về danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển, cũng như chính sách riêng biệt cho các ngành đặc thù.
Cùng với đó, bộ sẽ triển khai các đề án hỗ trợ theo chương trình phát triển CNHT đã phê duyệt trong một số ngành trọng điểm như công nghiệp ô tô, điện tử... Trong đó, sẽ tập trung vào khâu tổ chức kết nối và hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng cho các doanh nghiệp và các dự án có vốn đầu tư nước ngoài.
Đây được cho là "phát súng" đầu tiên liên quan tới sửa đổi các chính sách phục vụ ngành CNHT được thực hiện trong năm 2019. Thực tế, đã có khoảng 10 văn bản pháp luật được ban hành từ năm 2000 đến nay nhằm hỗ trợ ngành này phát triển. Theo đánh giá của ông Đỗ Thắng Hải, Thứ trưởng Bộ Công Thương, nhìn chung các chính sách phát triển CNHT đã điều chỉnh phù hợp với điều kiện và yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh mới, trong đó có nhiều giải pháp mang tính thực chất.
Chính vì vậy, doanh nghiệp CNHT trong thời gian qua đã có những bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Trong 10 năm, từ 2006-2016, số lượng doanh nghiệp CNHT đã tăng 11,5%. Tính đến hết năm 2016, trong ngành CNHT có khoảng 1.800 doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện và hơn 1.500 doanh nghiệp sản xuất nguyên vật liệu cho ngành dệt may, da giày.
Đặc biệt, trong năm 2016, giá trị sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp CNHT đã tăng hơn 20% so với năm 2015, giá trị xuất khẩu đạt 32 tỉ đô la Mỹ, chủ yếu sang các thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ.
Doanh nghiệp sản xuất linh kiện Việt Nam đã đạt năng lực khá tốt tại một số lĩnh vực như sản xuất khuôn mẫu các loại; linh kiện xe đạp, xe máy; linh kiện cơ khí tiêu chuẩn; dây cáp điện; linh kiện nhựa - cao su kỹ thuật; săm lốp các loại.
Song, ông Hải cũng thừa nhận, các chính sách hỗ trợ ngành CNHT thời gian qua mang tính "thụ động", "hỗ trợ trực tiếp" và "không xác định thời điểm ngừng hỗ trợ". Điều này đã tạo ra tác động ngược, khiến doanh nghiệp ỷ lại. Ngoài ra, vẫn còn thiếu cơ chế hữu hiệu để gắn kết doanh nghiệp phụ trợ trong nước và doanh nghiệp FDI nhằm xây dựng chuỗi cung ứng ngay tại thị trường nội địa. Những chính sách thu hút vào các ngành sản xuất sản phẩm CNHT cũng chưa đủ hấp dẫn để thu hút được các nhà đầu tư lớn, có vai trò làm động lực lan tỏa cho cả ngành.
Hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng sự tham gia của doanh nghiệp trong nước vào chuỗi cung ứng toàn cầu còn hạn chế, vẫn nặng về hoạt động mang tính chất gia công, lắp ráp. Còn vật tư, nguyên - phụ liệu cho sản xuất, chi tiết, linh kiện, bán thành phẩm, thậm chí là từ con ốc vít... cho lắp ráp vẫn chủ yếu do các nhà cung cấp nước ngoài đảm nhận. Ông Lê Dương Quang, Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, thừa nhận: "Nhận định trên dường như không quá xa thực tế".
Nền tảng chính sách còn nhiều bất cập là một trong những nguyên nhân khiến số lượng doanh nghiệp trong ngành này còn rất khiêm tốn, trung bình chỉ tăng khoảng hơn 1% trong 10 năm qua. Hiện nay, tổng số doanh nghiệp CNHT chiếm khoảng 0,4% trong tổng số doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó, số doanh nghiệp CNHT trong nước chỉ chiếm khoảng 30% trong tổng số doanh nghiệp CNHT.
"Hầu hết các doanh nghiệp CNHT là doanh nghiệp tư nhân quy mô nhỏ, thiếu những doanh nghiệp quy mô lớn, có uy tín, chiến lược kinh doanh bài bản và dài hơi, có thương hiệu cũng như khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trên thị trường quốc tế", ông Hải, Thứ trưởng Bộ Công Thương, nói.
Khả năng liên kết yếu
Chính vì nhỏ và yếu nên khả năng liên kết giữa doanh nghiệp CNHT trong nước với doanh nghiệp FDI còn lỏng lẻo. Hơn nữa, việc chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý còn hạn chế bởi một phần nguyên nhân xuất phát từ chính lĩnh vực đầu tư, định hướng thị trường và hình thức sở hữu của doanh nghiệp FDI.
Theo Bộ Công Thương, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp vẫn chủ yếu tập trung vào các nhóm ngành định hướng xuất khẩu, thâm dụng lao động như dệt may, da giày, ô tô, xe máy với định hướng thị trường vẫn do người mua ở các nước nhập khẩu EU, Mỹ, Nhật Bản quyết định. Do đó, nguyên phụ liệu làm đầu vào cho sản xuất chủ yếu là nhập khẩu.
Hơn nữa, phần lớn doanh nghiệp FDI tại Việt Nam hoạt động theo hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài nên đã tạo khoảng cách nhất định về tập quán, cách thức sản xuất kinh doanh, trình độ năng lực quản lý với doanh nghiệp CNHT Việt Nam. Đây cũng là rào cản làm giảm khả năng liên kết giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Lý giải cho vấn đề này, ông Lê Dương Quang cho hay thời kỳ đầu thu hút FDI, các chính sách được ban hành thường chú trọng nhiều hơn đến mục tiêu thu hút vốn, ít chú ý đến khuyến khích doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước kết nối, hợp tác với nhau. Do đó, ưu đãi trong chính sách chưa nhắm đến việc khuyến khích nâng cao tỷ lệ cung ứng hàng hóa, dịch vụ trong nước, hoặc ràng buộc trách nhiệm của nhà đầu tư tham gia phát triển chuỗi cung ứng trong nước. Doanh nghiệp trong nước vì thế khó tiếp cận và tham gia vào chuỗi cung ứng. "Đây là vấn đề cần được quan tâm giải quyết trong chính sách thu hút FDI sắp tới", ông Quang nói.
Trong khi đó, theo quan điểm của các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, ngành CNHT trong nước yếu là nguyên nhân chính khiến dòng vốn nước ngoài ngần ngại đầu tư. Ông Hironobu Kitagawa, Trưởng đại diện văn phòng Tổ chức Thúc đẩy ngoại thương Nhật Bản (Jetro) tại Hà Nội, cho hay một trong những vấn đề lớn nhất mà doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam gặp phải chính là "tỷ lệ nội địa hóa nguồn nguyên liệu và linh phụ kiện của Việt Nam còn thấp".
Kết quả khảo sát của Jetro cho thấy tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu, linh phụ kiện trong ngành sản xuất chế tạo của Việt Nam là 33%, thấp hơn so với 67% của Trung Quốc, 57% của Thái Lan. Chính vì vậy, các doanh nghiệp sản xuất bị phụ thuộc rất nhiều vào việc nhập khẩu nguyên vật liệu từ Trung Quốc, Thái Lan hay một số quốc gia lân cận.
Hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài khi vào Việt Nam đều mong muốn có được nguồn cung ứng vật tư, nguyên liệu, năng lượng ổn định tại chỗ. Điều này giúp doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, giảm thời gian đưa sản phẩm ra thị trường, tăng sức cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam thì muốn tham gia ngày càng nhiều vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp nước ngoài. Điều này giúp doanh nghiệp bảo đảm được đầu ra ổn định, có điều kiện nâng cao trình độ công nghệ cũng như kỹ năng quản trị, giúp họ hội nhập sâu hơn, hiệu quả hơn với khu vực và thế giới.
"Vấn đề còn lại là làm sao để hai bên gặp được nhau, kết nối được với nhau", ông Lê Dương Quang, Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, nói.
Góp ý xây dựng chính sách cho ngành này, theo vị trưởng đại diện văn phòng Jetro tại Hà Nội, ngành CNHT phải xây dựng hệ thống đào tạo hỗ trợ cho những doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực này. Một yếu tố nữa là hình thành phương thức nâng cao giá trị sản xuất cho công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Theo Jetro, muốn cung cấp sản phẩm chất lượng cao thỏa mãn yêu cầu của doanh nghiệp nước ngoài, cần lắng nghe ý kiến từ chính các doanh nghiệp, qua đó xây dựng hệ thống cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm.
"Việt Nam cần làm rõ lĩnh vực muốn tập trung trong sản xuất chế tạo, chỉ khi đó Nhật Bản mới có thể hợp tác hỗ trợ một cách thuận tiện và hiệu quả hơn", ông Hironobu Kitagawa nói.
Nói về định hướng giải pháp phát triển ngành CNHT trong thời gian tới, lãnh đạo Bộ Công Thương cho hay ngoài các hình thức đầu tư truyền thống, chính sách thu hút FDI cần tạo khuôn khổ pháp lý cho việc đa dạng hóa các hình thức đầu tư, hợp tác kinh doanh, liên doanh, liên kết, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ, trao đổi lao động kỹ thuật... nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp CNHT trong nước và doanh nghiệp CNHT nước ngoài tại Việt Nam.
Theo Thesaigontimes