1.Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Việt Nam đã trải qua 50 năm đất nước thống nhất và 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Từ thực tiễn trước đổi mới, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, trong đó Nhà nước xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế, tổ chức sản xuất và phân bổ các nguồn lực theo kế hoạch, Nhà nước trực tiếp chỉ huy, phân phối nguồn lực. Mô hình này có vai trò nhất định trong ổn định xã hội thời kỳ chiến tranh, cũng như thời gian đầu sau 10 năm thống nhất đất nước (1975-1986).
Ảnh minh họa
Từ Đại hội VI của Đảng, với việc ra đời đường lối đổi mới, kết quả của sự thay đổi nhận thức về kế hoạch hóa, kinh tế thị trường, về thời kỳ quá độ, về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất và mô hình chủ nghĩa xã hội. Đó là quá trình tổng kết thực tiễn, trong nước và trên thế giới, khắc phục tư duy giáo điều, chủ quan duy ý chí. Theo đó, kinh thế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại, không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà ngược lại, đó là điều kiện, là cơ sở, nền tảng quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế- xã hội, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường gắn liền với sản xuất hàng hóa, hoàn toàn có thể xây dựng được ở các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau với các mô hình cụ thể, phù hợp với đặc điểm, trình độ phát triển, quy luật khách quan và xu thế của thời đại. Kinh tế thị trường có nhiều mặt tích cực, đặc biệt là tính hiệu quả trong phân bổ nguồn lực, đáp ứng nhu cầu của xã hội, nhưng kinh tế thị trường cũng có không ít khuyết tật, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục các khuyết tật, nhất là là tính tự phát, phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đại hội VI của Đảng nêu ra đường lối đổi mới, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sản xuất phải gắn với thị trường. Trong các nhiệm kỳ đại hội tiếp theo, những tư tưởng, nhận thức đó tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và thực hiện nhất quán, lâu dài kinh tế nhiều thành phần, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội lần thứ VII của Đảng, đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991) và các văn kiện quan trọng khác, xác định mô hình kinh tế tổng quát của nước ta là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Quá trình phát triển tư duy, nhận thức về nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thời kỳ này tiếp tục đặt ra yêu cầu cần cụ thể, làm rõ hơn các mối quan hệ về vai trò nhà nước và thị trường, về kế hoạch và thị trường, sự phát triển của các yếu tố này phù hợp với trình độ, đặc điểm của Việt Nam.
Đại hội VIII tiếp tục cụ thể hóa, khẳng định, mô hình kinh tế tổng quát và chỉ rõ, trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch; kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng, thị trường trực tiếp điều tiết hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế; cần phải phát triển đồng bộ các loại thị trường, nâng cao năng lực quản lý của nhà nước, xác định rõ hơn vai trò của Nhà nước trong việc hoàn thiện khung khổ pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách và sử dụng nguồn lực kinh tế của Nhà nước, vai trò của doanh nghiệp nhà nước, kinh tế nhà nước...
Thuật ngữ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chính thức được văn kiện Đại hội IX của Đảng đưa ra và khẳng định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát, đồng thời cũng là đường lối chiến lược nhất quán của Việt Nam, trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở thực tiễn 15 năm đổi mới, 10 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, những đặc điểm, nội hàm của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta được xác định, đó là: Mục tiêu phát triển là nâng cao đời sống nhân dân trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội; nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân, bình đẳng trước pháp luật, phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế; vai trò nhà nước trong quản lý nền kinh tế thực hiện bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chiến lược, chính sách là cơ sở để phát huy mặt tích cực và hạn chế tiêu cực của cơ chế thị trường; có đầy đủ, đồng bộ các loại thị trường có sự điều tiết của nhà nước, theo các quy luật khách quan; phân phối thu nhập được thực hiện thông qua kết quả lao động, hiệu quả kinh tế và theo mức vốn đóng góp, các nguồn lực khác tham gia vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội; đảm bảo gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Nhận thức về nội hàm, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, làm rõ trong các giai đoạn tiếp theo cả về mục tiêu, đặc trưng, tính chất và định hướng phát triển.
Các kỳ đại hội X, XI khẳng định về tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa là “ thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng sức sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân..”. Cũng với các văn kiện của đại hội theo nhiệm kỳ, Đại hội XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011), tiếp tục làm sâu sắc thêm vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục khẳng định quan điểm đã có từ trước đó và bổ sung nhiều nội dung mới, đặc biệt nhấn mạnh, coi kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ. Nhất quán nhận thức về mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, chỉ rõ các đặc trưng của mô hình về mục đích, chế độ kinh tế, cơ chế vận hành, chế độ phân phối của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các yếu tố thị trường, các loại thị trường tiếp tục được hoàn thiện; các nguồn lực được phân bổ chủ yếu qua thị trường; hệ thống tài chính - tiền tệ, huy động vốn toàn xã hội được mở rộng, kinh tế đối ngoại có vai trò ngày càng cao .
Đến Đại hội XII của Đảng, ngoài những nội dung nêu trên, văn kiện của Đảng nhấn mạnh, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với trình độ, đặc điểm của đất nước qua từng giai đoạn. Các đặc trưng cơ bản vẫn tiếp tục được nhấn mạnh, đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đến Đại hội XIII, nội hàm của kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục được làm rõ, xác định đây tiếp tục là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Về các hạn chế, yếu kém: Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, sự phát triển kinh tế trong 50 năm qua, đặc biệt là qua 40 năm đổi mới, quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, nay là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém cả trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, trong đó tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Nhiều chủ trương, chính sách chậm được cụ thể hóa; thể chế phát triển, cơ chế, chính sách kinh tế nhiều giai đoạn không theo kịp yêu cầu thực tiễn, chậm được hoàn thiện; tăng trưởng kinh tế chưa đạt được mục tiêu đề ra; kinh tế vĩ mô ổn định chưa bền vững; chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, khoảng cách tụt hậu giữa Việt Nam và các nước chậm được thu hẹp; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo chưa thật sự trở thành động lực tăng trưởng kinh tế; tình hình tham nhũng còn diễn biến phức tạp, chưa bị đẩy lùi; đời sống người dân còn nhiều khó khăn.
Về nguyên nhân: Tình hình trên có nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là cơ bản, cả trong thành tựu đạt được và hạn chế, yếu kém. Bên cạnh những chủ trương, đường lối đúng đắn, sự vào cuộc quyết liệt của nhà nước, sự đồng thuận của nhân dân, nhưng kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng do điểm xuất phát thấp, chuyển từ nền kinh tế tiểu nông sang kinh tế kế hoạch, tập trung, quan liêu, bao cấp và chuyển sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và sau này là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình phát triển, Việt Nam luôn bị nhiều tác động bất lợi từ bên ngoài, trong đó có cả sự chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch đối với nền tảng tư tưởng của Đảng, đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh mới
Bước vào 5 năm cuối của thập niên thứ 3, thế kỷ XXI với nhiều diễn biến phức tạp, khó đoán định, xu hướng phân mảnh địa chính trị, địa kinh tế tiếp tục diễn ra trong cục diện “đa cực, đa trung tâm”. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, đặc biệt là sự trỗi dậy của Trung Quốc, xung đột Nga-Ucraina tiếp tục diễn biến phức tạp. Xung đột Israel-Hamas ngày càng khốc liệt, khó lường. Kinh tế thế giới với nhiều rủi ro, tăng trưởng thấp, tăng trưởng thương mại, đầu tư toàn cầu có nhiều bất ổn. Theo dự báo của WB, giai đoạn 2022-2030 mức tăng trưởng bình quân chỉ đạt 2,2%/năm. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tạo ra nhiều thời cơ, thách thức với các quốc gia, tạo ra những đột phá mới về kinh tế số, xã hội số.. nhưng cũng là khoảng cách lớn trong cuộc cạnh tranh, lợi thế phát triển. Những vấn đề an ninh truyền thống, phi truyền thống tác động nhiều hơn trong giai đoạn tới khi biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh ngày càng phức tạp. Tranh chấp Biển Đông sẽ tác động đến hòa bình, ổn định của nhiều quốc gia.
Ở trong nước, mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, cùng với bối cảnh mới, đặt ra cho Việt Nam nhiều thời cơ, thách thức mới. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện cả về lý luận và kết quả vận hành. Nguồn lực tiếp tục được giải phóng, thúc đẩy sự phát triển đất nước, quản trị xã hội của Nhà nước được nâng lên, định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng rõ nét hơn. Tuy nhiên, có nhiều thách thức đặt ra đối với Việt Nam, như: Bộ máy vẫn còn cồng kềnh, kém hiệu quả; năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” và tụt hậu xa hơn còn cao; già hóa dân số diễn ra với tốc độ cao; nhiều yếu kém nội tại của nền kinh tế chậm được khắc phục; những khó khăn, thách thức từ bên ngoài ảnh hưởng không nhỏ tới Việt Nam…
Tình hình trên đặt ra yêu cầu cần sớm có định hướng, giải pháp phù hợp cho phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa giai đoạn tới, trong đó tập trung một số giải pháp chủ yếu như sau:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về thời kỳ quá độ, các bước đi, giai đoạn phát triển, là cơ sở, nền tảng để hoàn thiện lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nâng cao năng lực dự báo, năng lực tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Bổ sung, làm rõ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, thống nhất nhận thức, tiếp tục đổi mới tư duy, định hình rõ hơn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn mới. Cần khẳng định rằng, không có mô hình kinh tế thị trường áp dụng chung các quốc gia. Việt Nam cần hoàn thiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước, đặc biệt là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển nhanh và bền vững là một chủ trương lớn, gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập quốc tế. Giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa nhà nước- thị trường và xã hội theo hướng Nhà nước mạnh, thị trường hiệu qủa, xã hội năng động, sáng tạo.
Thứ tư, tiếp tục thực hiện nhất quán, hiệu quả mục tiêu phát triển bao trùm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất cả vì con người, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, gắn ngay từ đầu, trong từng bước đi và từng chính sách phát triển.
Thứ năm, tiếp tục làm rõ hơn lý luận về sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, cầm quyền vì dân, cầm quyền một cách khoa học, cầm quyền đảm bảo chế độ dân chủ, nhưng giữ được kỷ cương và cầm quyền dựa trên pháp luật; cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
Hoàn thiện lý luận về nhà nước pháp quyền XHCN, về hệ thống pháp luật toàn diện, công bằng, minh bạch, hiện đại, hướng tới người dân; về thống nhất quyền lực nhưng có sự phân công rành mạch giữa các cơ quan; về cơ chế kiểm soát quyền lực trong hệ thống bộ máy nhà nước; về phân cấp, phân quyền, bộ máy công quyền tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; về nền công vụ liêm chính vì dân; chống tham nhũng, tiêu cực hiệu quả.
3.Tiếp tục hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong kỷ nguyên mới
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, đổi mới công tác xây dựng và thực thi pháp luật theo hướng minh bạch, ổn định, tiệm cận chuẩn mực quốc tế.
Rà soát và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong các lĩnh vực trọng yếu như đất đai, khoáng sản, quy hoạch.
Huy động tối đa nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển. Trong đó, đầu tư công giữ vai trò “dẫn dắt”, là “vốn mồi” để kích hoạt dòng vốn từ khu vực kinh tế tư nhân.
Tập trung phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại, sớm hoàn thành các công trình trọng điểm quốc gia, đồng bộ hóa cơ cấu nguồn điện, thúc đẩy các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới phù hợp với điều kiện phát triển từng thời kỳ.
Tận dụng lợi thế từ không gian phát triển mới, thông qua việc sáp nhập các địa phương và mô hình chính quyền 2 cấp.
Khai thác tiềm năng từ các động lực tăng trưởng mới như khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, AI, bán dẫn, công nghệ lượng tử…
Phát triển các mô hình kinh tế mới như khu Thương mại tự do, Trung tâm tài chính, gắn với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và kết nối mạng lưới nhân tài trong và ngoài nước. Đây là những động lực chính để tái cấu trúc nền kinh tế, xác lập mô hình tăng trưởng mới, thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tạo sự chuyển biến về chất trong giai đoạn phát triển mới.
Hỗ trợ phát triển và kết nối các khu vực kinh tế: nhà nước, tư nhân và FDI để tạo ra “sức mạnh tổng hợp” cho nền kinh tế quốc dân.
Thu hút các dự án đầu tư lớn trong các ngành chiến lược, có tính chất đột phá và tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ. Đặc biệt, cần thúc đẩy hội nhập quốc tế một cách chủ động, hiệu quả. Nội lực phải được đặt ở vị trí quyết định; ngoại lực là nguồn bổ sung, hỗ trợ cho phát triển, bảo đảm hội nhập toàn diện, sâu rộng mà vẫn giữ vững độc lập tự chủ, nâng cao năng lực tự cường và khả năng thích ứng trước mọi biến động toàn cầu.
Với tinh thần đoàn kết, ý chí tự cường, khát vọng vươn lên của toàn dân tộc; với sự lãnh đạo của Đảng, sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, sự chung sức, đồng lòng của cộng đồng doanh nghiệp, các địa phương và nhân dân cả nước, Việt Nam sẽ thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược, đưa đất nước bứt phá mạnh mẽ, vươn mình trong kỷ nguyên mới ./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết số 06-NQ/TW về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị- xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
.....
Chi bộ Văn phòng Ban