Sau hơn 7 tháng triển khai, Đề án tổng kết Nghị quyết số 39-NQ/TW đã hoàn thành và báo cáo Bộ Chính trị, được Bộ Chính trị thông qua và thống nhất ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 03/11/2022 về “Phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Nghị quyết 26). Nhân Hội nghị quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết 26, kinhtetrunguong.vn trân trọng giới thiệu một số nội dung quan trọng liên quan đến Nghị quyết mới về vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ
Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo phát biểu tại Hội nghị Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 16/8/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và Kết luận số 25-KL/TW ngày 02/8/2012 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 13-5-2022
Nghị quyết số 26-NQ/TW là sản phẩm kết tinh của trí tuệ tập thể, là kết quả tổng hợp từ các Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết 39-NQ/TW của 14 địa phương trong vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ và của 20 bộ, ngành; chọn lọc từ các kết quả nghiên cứu về vùng và các ý kiến đóng góp của các bộ, ngành và các thành viên Ban Chỉ đạo, các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học tại các hội nghị, hội thảo, tọa đàm, khảo sát thực tế; cập nhật, bổ sung các quan điểm, chủ trương mới của Đảng về phát triển vùng cũng như đánh giá bối cảnh mới, tình hình mới tác động đến vùng.
Việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với vùng; đáp ứng nguyện vọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ trong bối cảnh phát triển mới. Nghị quyết là cơ sở, căn cứ chính trị quan trọng cho sự ra đời của các cơ chế, chính sách mới nhằm khai thác và phát huy ở mức cao nhất tiềm năng, lợi thế cho phát triển nhanh và bền vững toàn vùng và các địa phương trong vùng thời gian tới.
Bộ Chính trị đã đánh giá toàn diện các kết quả đạt được, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ sau 18 năm thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW.
Về các kết quả đạt được: Nghị quyết số 26-NQ/TW đã khẳng định, những năm qua, các cấp, các ngành, nhất là các địa phương trong vùng đã nhận thức ngày càng rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của vùng; sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị được huy động; nhiều điểm nghẽn đối với phát triển được khơi thông, tiềm năng, lợi thế của vùng và từng địa phương trong vùng từng bước được phát huy; đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Kinh tế tăng trưởng bình quân 7,3%/năm giai đoạn 2005-2020, cao hơn mức trung bình cả nước. Quy mô kinh tế của vùng năm 2020 (theo giá hiện hành) tăng gấp 9,1 lần so với năm 2004, chiếm 14,5% GDP cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt mức đạt 56,9 triệu đồng/người/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ và công nghiệp là chủ đạo; một số ngành kinh tế cơ bản, nhất là các ngành kinh tế biển, các ngành có giá trị gia tăng cao được hình thành và phát triển; du lịch dần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Thu ngân sách tăng khá, một số địa phương đã cân đối được ngân sách và có điều tiết về Trung ương. Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch đạt được nhiều kết quả tích cực. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông và đô thị được cải thiện. Công tác quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên được chú trọng; bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu được tăng cường. Hợp tác giữa các địa phương trong vùng, của vùng với các địa phương khác và với các tỉnh của nước bạn Lào có chung đường biên giới với Việt Nam đạt được một số kết quả ban đầu. Văn hóa, xã hội có bước phát triển; chất lượng giáo dục - đào tạo và các chỉ tiêu y tế cơ bản được cải thiện. An sinh xã hội được bảo đảm, tỷ lệ hộ nghèo giảm khá nhanh. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là của đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn được nâng lên rõ rệt. Công tác dân tộc và tôn giáo được quan tâm, đạt kết quả quan trọng. Trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; quốc phòng, an ninh được giữ vững, nhất là an ninh chính trị, an ninh biên giới, bảo vệ vững chắc vùng đất, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng cao. Những kết quả đạt được trong thời gian qua khẳng định Nghị quyết 39-NQ/TW đã thực sự đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả tích cực.
Quang cảnh hội nghị Ban Chỉ đạo ngày 13-5-2022
Về những tồn tại, hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội vùng: Tiềm năng, lợi thế của vùng, nhất là kinh tế biển chưa được khai thác hợp lý và phát huy hiệu quả. Quy mô kinh tế vùng còn nhỏ, GRDP bình quân đầu người thấp. Tăng trưởng kinh tế chưa thực sự bền vững, chất lượng và năng lực cạnh tranh chưa cao. Cơ cấu kinh tế kinh tế chuyển dịch còn chậm, chưa có đột phá. Hiệu quả hoạt động các khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu, cụm công nghiệp chưa cao, tỷ lệ lấp đầy còn thấp. Các khu kinh tế ven biển, cảng biển phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Thiếu dự án đầu tư quy mô lớn, có tính động lực. Quy mô sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, manh mún. Ngành dịch vụ phát triển chưa đa dạng, chất lượng chưa cao. Du lịch phát triển chưa bền vững, thiếu đa dạng, sức cạnh tranh quốc tế còn thấp. Cơ cấu thu ngân sách chưa bền vững. Doanh nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, tỷ suất lợi nhuận thấp. Hệ thống kết cấu hạ tầng chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, tính kết nối chưa cao, tỷ lệ đường cao tốc thấp. Liên kết phát triển vùng còn lỏng lẻo, lúng túng, bị động. Tốc độ đô thị hóa và chất lượng đô thị còn thấp. Các đô thị trung tâm vùng chưa phát huy được vai trò đầu tàu, động lực thúc đẩy phát triển vùng. Văn hóa - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mới. Một số chỉ tiêu về giáo dục và đào tạo chưa đạt mục tiêu đặt ra. Thị trường lao động chậm phát triển, thiếu linh hoạt, tỷ lệ thiếu việc làm còn cao; chất lượng lao động và việc làm còn thấp. Tỷ lệ hộ nghèo còn cao, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ lệ giảm nghèo chưa đạt mục tiêu đặt ra. Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội có lúc, có nơi còn bị động; công tác dân tộc, tôn giáo vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ở một số nơi chưa đáp ứng được yêu cầu.
Nguyên nhân chính của những hạn chế: Nghị quyết số 26-NQ/TW đã chỉ ra những nguyên nhân chính của những hạn chế trong phát triển vùng thời gian qua như: Nhận thức chưa đầy đủ về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của vùng, tư duy về liên kết vùng chậm được đổi mới; hoạt động của Hội đồng điều phối vùng chưa hiệu quả; cơ chế điều phối, kết nối vùng còn nhiều bất cập; phân chia các tiểu vùng chưa thống nhất; thiếu hệ thống các chỉ tiêu kinh tế - xã hội để quản lý, điều tiết vùng. Chưa có chính sách đủ mạnh để tạo đột phá cần thiết cho vùng và một số địa phương trọng điểm. Chất lượng quy hoạch còn thấp, thiếu liên kết, đồng bộ. Phân cấp, phân quyền cho các địa phương chưa triệt để, thiếu sự phối hợp và kiểm tra, giám sát. Nguồn lực đầu tư cho vùng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là đầu xây dựng hạ tầng giao thông; cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, còn dàn trải, hiệu quả sử dụng chưa cao. Phối hợp giữa các bộ, ngành Trung ương với các địa phương chưa chặt chẽ. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, có mặt còn hạn chế, tính năng động chưa cao. Vùng bị tác động mạnh bởi thiên tai, nhất là biến đổi khí hậu.
Bài 2: Quan điểm và mục tiêu chủ đạo của Nghị quyết số 26-NQ/TW
Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế