Đo lường kinh tế số ở Việt Nam
Ở Việt Nam, phát triển kinh tế số đã được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm chú trọng. Ngày 27 tháng 9 năm 2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, đặt mục tiêu tới năm 2030, kinh tế số chiếm khoảng 30% GDP; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra đến năm 2025, kinh tế số phải đạt khoảng 20% GDP và đạt khoảng 30% GDP vào năm 2030.
Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Tổng cục Thống kê có những nghiên cứu chuyên sâu về cách đo lường kinh tế số
Để phục vụ đo lường nền kinh tế số, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư số 13/2021/TT-BKHĐT quy định Hệ thống chỉ tiêu kinh tế số gồm 50 chỉ tiêu, trong đó có chỉ tiêu“Tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong tổng sản phẩm trong nước”, và là một trong 23 chỉ tiêu thống kê phản ánh chuyển đổi số và xã hội số được quy định trong Luật sửa đổi bổ sung một số điều và Phụ lục Danh mục chỉ tiêu Thống kê quốc gia của Luật Thống kê ngày 12/11/2021 và trong Nghị định số 94/2022/NĐ-CP ngày 07/11/2022 của Chính phủ quy định nội dung chỉ tiêu thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia và quy trình biên soạn chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước (GDP), chỉ tiêu tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (GRDP). Cùng với đó, Quyết định số 05/2023/QĐ-TTg ngày 24/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã có chỉ tiêu “Tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong tổng sản phẩm trên địa bàn”. Các chỉ tiêu này do Tổng cục Thống kê chịu trách nhiệm chủ trì biên soạn, công bố.
Tuy nhiên, hiện nay việc đo lường kinh tế số còn gặp nhiều khó khăn, thách thức đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt chỉ tiêu tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP/GRDP. Đây là chỉ tiêu kinh tế vĩ mô tổng hợp mới, khó và phức tạp cả về lý luận và thực tiễn, liên quan đến hầu hết các hoạt động của nền kinh tế. Hiện nay, Cơ quan Thống kê Liên hợp quốc chưa ban hành phương pháp luận và tài liệu hướng dẫn để thống nhất thực hiện biên soạn chỉ tiêu kinh tế số trên toàn thế giới.
Ở Việt Nam, GDP được biên soạn và và công bố hằng quý, năm theo phương pháp sản xuất và phương pháp sử dụng. Riêng phương pháp thu nhập được thực hiện vào năm biên soạn và công bố bảng IO (5 năm/lần). GRDP được biên soạn và công bố hằng quý, năm theo phương pháp sản xuất.
Tính đến thời điểm hiện tại, Tổng cục Thống kê đã biên soạn và công bố 05 bảng cân đối liên ngành IO vào các năm 1989 (54 ngành sản phẩm), 1996 (97 ngành sản phẩm), 2000 (112 ngành sản phẩm), 2007 (138 ngành sản phẩm), 2012 (164 ngành sản phẩm) và hiện nay đang tiến hành biên soạn bảng IO thứ 6 cho năm 2020. Tuy nhiên để phục vụ cho công tác nghiên cứu, Tổng cục Thống kê cũng đã cập nhật các bảng IO cho các năm 2016 với 164 ngành sản phẩm và năm 2020 theo 88 ngành kinh tế.
Nguồn thông tin để biên soạn các chỉ tiêu GDP, GRDP và lập bảng IO được thu thập từ điều tra, dữ liệu hành chính và chế độ báo cáo thống kê.
Khái niệm, phạm vi và phương pháp đo lường tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP, GRDP
Trên cơ sở áp dụng lý luận tổ chức quốc tế về kinh tế số và thực trạng nguồn thông tin của Việt Nam, Tổng cục Thống kê đã xác định khái niệm, phạm vi và phương pháp đo lường tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP, GRDP của Việt Nam như sau:
Khái niệm: Kinh tế số là các hoạt động kinh tế sử dụng công nghệ số làm yếu tố đầu vào chính, sử dụng môi trường số làm không gian hoạt động chính, sử dụng công nghệ thông tin - viễn thông để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, quản lý điều hành và tối ưu hoat động kinh tế.
Phạm vi: Kinh tế số bao gồm ngành kinh tế số hỗ trợ các hoạt động kinh tế (kinh tế số lõi) và ngành kinh tế được hỗ trợ bởi kinh tế số (hoạt động số hóa của các ngành kinh tế khác).
Theo Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam (VSIC) 2018, các ngành kinh số lõi gồm:
(1) Hoạt động thuộc nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Ngành 26 - Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học.
(2) Hoạt động thuộc nhóm ngành Bán buôn và bán lẻ, sửa chữa mô tô, ô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình: Bán buôn máy vi tính, thiết bị ngoại vi, phần mềm trong các cửa hàng chuyên doanh (mã ngành 4651 - Bán buôn máy vi tính, thiết bị ngoại vi và phần mềm, 4652 - Bán buôn thiết bị và linh kiện điện tử, viễn thông);
(3) Hoạt động thuộc nhóm ngành Thông tin truyền thông:
- Xuất bản phần mềm (mã ngành 582 - Xuất bản phần mềm);
- Viễn thông (mã ngành 61);
- Lập trình máy vi tính, dịch vụ tư vấn và các hoạt động khác liên quan đến máy vi tính (mã ngành 62);
- Hoạt động dịch vụ thông tin (mã ngành 6311 - Xử lý dữ liệu, cho thuê và các hoạt động liên quan; 6312 - Cổng thông tin);
- Hoạt động sửa chữa máy vi tính (mã ngành 9511 - Sửa chữa máy vi tính và thiết bị ngoại vi; 9512-Sửa chữa thiết bị thông tin liên lạc).
Các ngành được hỗ trợ bởi các ngành kinh tế số lõi chính là các hoạt động kinh tế dựa vào hoặc được tăng cường đáng kể bằng cách sử dụng các yếu tố đầu vào kỹ thuật số, gọi chung là số hóa của các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế theo VSIC 2018. Giá trị số hóa của các ngành kinh tế khác là giá trị tăng thêm mà ngành đó đạt được nhờ việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh hay quản lý điều hành.
Phương pháp: Đo lường đóng góp giá trị gia tăng của kinh tế số trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam được tiếp cận từ cả phía cung và phía cầu, việc biên soạn chỉ tiêu này được thực hiện ở cả cấp quốc gia và cấp địa phương. Tỷ trọng đóng góp của kinh tế số trong GDP và GRDP được biên soạn theo giá hiện hành.
- Kinh tế số lõi, phương pháp biên soạn thống nhất cho toàn quốc và cho địa phương
Tính giá trị sản xuất (GO) của các ngành theo giá hiện hành:
GO ngành 26 = Doanh thu thuần - Chênh lệch hàng tồn kho, sản phẩm dở dang, hàng gửi bán
GO ngành 4651, 4652 = Doanh thu thuần - Trị giá vốn hàng bán
GO ngành 582, 61, 62, 63, 951 = Doanh thu thuần
Giá trị tăng thêm được tính như sau:
Giá trị tăng thêm = Giá trị sản xuất - Chi phí trung gian
Trong đó, hệ số chi phí trung gian được biên soạn từ kết quả cuộc điều tra thu thập thông tin lập bảng cân đối liên ngành và tính hệ số chi phí trung gian, thực hiện 5 năm một lần.
Như vậy tính được giá trị tăng thêm (VA) của từng ngành kinh tế số lõi:
VA KTS lõi = GOKTS lõi – ICKTS lõi
Tỷ lệ giá trị tăng thêm của kinh tế số lõi trong GDP, GRDP (Tỷ lệ VA KTS lõi) = VAKTS lõi / GDP,GRDP
- Số hóa của các ngành kinh tế khác:
Đối với toàn quốc, tiếp cận từ cả phía cung và phía cầu dựa trên bảng cân đối liên ngành IO. Tính hoạt động số hóa dựa trên tác động của nhóm ngành kinh tế số tới giá trị tăng thêm của các ngành kinh tế khác, khi sử dụng đầu ra của ngành kinh tế số làm yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất của các ngành này.
Đối với các địa phương, do hạn chế về nguồn thông tin và hệ số của bảng IO chỉ được biên soạn cho cả nước nên đo lường đóng góp của kinh tế số trong GRDP các tỉnh, thành phố sẽ được ước tính trực tiếp chi phí của ngành này khi sử dụng các ngành kinh tế số lõi làm yếu tố đầu vào.
Giá trị sản xuất của hoạt động số hóa là toàn bộ các chi phí số hóa mà ngành kinh tế khác bỏ ra phục vụ cho hoạt động ứng dụng công nghệ công tin cho hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý điều hành.
Chí phí số hóa có thể được thu thập hằng năm từ các cuộc điều tra, dữ liệu hành chính và chế độ báo cáo thống kê.
Tỷ lệ giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP, GRDP= Tỷ lệ VA KTS lõi + Tỷ lệ VAsố hóa
Nguồn số liệu đo lường giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP và GRDP
Để đo lường và tính toán đóng góp của các hoạt động thuộc kinh tế số (lõi), thông tin được thu thập từ các nguồn:
(1) Điều tra thống kê: Lồng ghép các câu hỏi để thu thập thông tin liên quan đến kinh tế số từ các cuộc Tổng điều tra, điều tra thống kê trong Chương trình điều tra Thống kê quốc gia và các cuộc điều tra thống kê khác do Tổng cục Thống kê, các Bộ, ngành, địa phương thực hiện.
(2) Báo cáo thống kê: Thu thập thông tin liên quan đến kinh tế số từ chế độ báo cáo thống kê cấp quốc gia và cấp Bộ, ngành thực hiện.
(3) Khai thác dữ liệu hành chính: Thu thập thông tin từ các dữ liệu hành chính có liên quan đến kinh tế số của các Bộ, ngành và các địa phương.
Để đo lường và tính toán đóng góp giá trị tăng thêm của kinh tế số trong các hoạt động kinh tế, ngoài các nguồn thông tin đã nêu trên, còn phải tiến hành thu thập thông tin để lập bảng IO định kỳ 5 năm một lần và cập nhật hằng năm.
Giải pháp hoàn thiện đo lường kinh tế số
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số ngày càng phát triển mạnh mẽ, sẽ đóng góp nhiều hơn vào chuyển đổi mô hình tăng trưởng; kết hợp xu thế số hóa đã tạo cơ hội cho các quốc gia trên thế giới chuyển đổi toàn diện nền kinh tế, đồng thời đặt ra yêu cầu khẩn trương và quyết liệt trong việc tìm kiếm, khuyến khích các ngành, hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng số. Đây vừa là thách thức nhưng cũng là cơ hội để Việt Nam có thể tận dụng phát triển kinh tế đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng. Để đo lường đầy đủ, toàn diện đóng góp kinh tế số trong tăng trưởng kinh tế các cấp, các ngành cần quan tâm, thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò kinh tế số trong nền kinh tế. Hiện nay, nhận thức, nhu cầu và hành động theo xu thế kinh tế số chưa được đầy đủ trong xã hội. Thúc đẩy phát triển kinh tế số ở Việt Nam cần có sự tham gia tích cực, chủ động của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Vì vậy, cần đẩy mạnh thông tin tuyên truyền, tạo sự chuyển biến về xu hướng, vai trò và định hướng ứng dụng kinh tế số trong phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta hiện nay.
Hai là, tăng cường sự hợp tác, phối hợp giữa Tổng cục Thống kê với Bộ, ngành, địa phương. Các bộ, ngành và địa phương cần kết nối, chia sẻ thông tin liên quan đến kinh tế số, chuyển đổi số phục vụ biên soạn chỉ tiêu đo lường kinh tế số.
Ba là, quan tâm xây dựng thể chế để bố trí nguồn lực phù hợp, thúc đẩy ứng dụng kinh tế số trong các hoạt động kinh tế và quản lý, điều hành. Các bộ, ban, ngành sớm ban hành các văn bản hướng dẫn để huy động và sử dụng các nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế số đạt được mục tiêu đã đề ra. Đối với các địa phương, quan tâm bố trí nguồn lực, hỗ trợ thu thập thông tin phục vụ biên soạn các chỉ tiêu liên quan đến kinh tế số trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Thực hiện các điều tra chuyên sâu để thu thập thông tin liên quan đến hoạt động số hóa và các hệ số kỹ thuật phục vụ phản ánh đầy đủ, sát thực đóng góp của kinh tế số trong phát triển kinh tế -xã hội của nước ta.
Theo Tạp chí Con số và sự kiện