Trân trọng giới thiệu bài phát biểu:
Một số vấn đề về Năng suất lao động Việt Nam
Trong bài viết này tôi xin tập trung trả lời một số câu hỏi liên quan đến năng suất lao động tại Việt Nam.
Thứ nhất, năng suất lao động tại Việt Nam có thực sự quá thấp khi so với các nước trong khu vực? Thứ hai, năng suất lao động theo ngành tại Việt Nam trong giai đoạn 2018-2022 cho thấy những vấn đề gì? Thứ ba một số kiến nghị để thúc đẩy nhanh hơn năng suất lao động tại Việt Nam.
TS Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Trung tâm Thông tin, Phân tích và Dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương phát biểu tại Diễn đàn
1. Năng suất lao động Việt Nam so với các nước trong khu vực
Năng suất lao động quốc gia là thước đo hoạt động kinh tế của một quốc gia, tính toán so sánh lượng giá trị gia tăng được tạo ra tính trên một đầu vào lao động. Theo nghĩa đó NSLĐ được tính bằng GDP chia cho số lao động có việc làm trong năm.
Theo số liệu của NHTG thì NSLĐ của Việt Nam năm 2022 tính bằng USD 2017 theo ngang giá sức mua PPP là 20400 USD, chỉ bằng 11,4% so với Singapore, 35,4% so với Malaysia, 64,4% so với Thái Lan, 79% so với Indonesia…
Tuy nhiên do cơ cấu nền kinh tế Việt Nam phần lớn lao động làm việc trong khu vực phi chính thức và hộ gia đình, số lượng lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp chỉ chiếm 29,2% lao động có việc làm trong năm 2022. Mặc dù vậy số lượng lao động này lại tạo ra khoảng 60% GDP cho cả nền kinh tế (khu vực tư nhân tạo ra khoảng 10%[i], khu vực doanh nghiệp FDI tạo ra khoảng 20,14% và khu vực doanh nghiệp nhà nước tạo ra khoảng 29% GDP[ii]). GDP của Việt Nam năm 2022 theo ngang giá sức mua PPP bằng đồng USD 2017 là 1.321.694,15 triệu USD. Như vậy với việc tạo ra 60% GDP năng suất lao động của các lao động trong doanh nghiệp Việt Nam là 53582 USD/lao động. Ngược lại gần như 100% lao động của Singapore là làm việc tại doanh nghiệp hoặc cơ quan nhà nước. Với con số này thì NSLĐ của người lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam sẽ bằng khoảng 30% NSLĐ của người lao động trong các doanh nghiệp Singapore chứ không phải 11,4% như ban đầu.
Như vậy để tăng NSLĐ thì cần phải phát triển nhiều hơn nữa hệ thống doanh nghiệp. Mục tiêu 1,5 triệu doanh nghiệp năm 2025 gần như không thực hiện được chính là một yếu tố làm cho NSLĐ của Việt Nam vẫn còn thấp như hiện nay.
Tuy nhiên, NSLĐ của khu vực doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam còn quá thấp. Các doanh nghiệp tư nhân tạo ra khoảng 59% việc làm trong khu vực doanh nghiệp nhưng chỉ đóng góp giá trị gia tăng bằng 1/6 của toàn bộ khu vực doanh nghiệp, nên NSLĐ trong khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt Nam chỉ bằng 3,6% khu vực DNNN và 28,5% khu vực doanh nghiệp FDI (tính toán dựa trên số liệu GDP năm 2021 và giả định tỷ lệ đóng góp vào GDP của các khu vực kinh tế năm 2021 không thay đổi đáng kể so với năm 2020).
2. Năng suất lao động Việt Nam trong giai đoạn 2018-2022
Trong giai đoạn 2018-2022 mặc dù bị ảnh hưởng bởi Covid-19 nhưng năng suất lao động của Việt Nam vẫn tăng bình quân 7,06%/năm[iii]. Những ngành có NSLĐ cao vượt trội so với mức trung bình của cả nước lại có tỷ trọng lao động rất thấp tổng lao động các ngành này (trừ công nghiệp chế biến chế tạo) chỉ chiếm 10,28% tổng số lao động có việc làm năm 2022.
Ngành Chế biến chế tạo có tỷ trọng lao động lớn (chiếm 23,25%) đóng vai trò như trung vị của NSLĐ cả nước. Đây chính là ngành động lực thúc đẩy NSLĐ của cả nước. 66,5% lao động nằm trong các ngành có NSLĐ thấp hơn bình quân cả nước. Đặc biệt ngành Nông lâm thủy sản có NSLĐ chỉ bằng 39,73% NSLĐ bình quân cả nước nhưng có số lao động chiếm 27,54% tổng lđ có việc làm. Ngành bán buôn bán lẻ sửa chữa xe có động cơ cũng là nơi tạo việc làm tới 15,6% nhưng NSLĐ chỉ bằng 57% mức bình quân cả nước. Như vậy chúng ta vẫn còn nhiều dư địa để tăng NSLĐ bằng việc dịch chuyển lao động từ khu vực dư thừa lao động, có NSLĐ thấp sang những ngành có NSLĐ cao hơn, đang thiếu lao động như Truyền thông thông tin, hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ, nghệ thuật vui chơi giải trí, công nghiệp chế biến chế tạo. v.v
3. Một số kiến nghị
- Thứ nhất, tiếp tục thực hiện các giải pháp đồng bộ, cải thiện môi trường kinh doanh, tăng khả năng tiếp cận nguồn lực như đất đai, vốn, tri thức, lao động, giảm chi phí tuân thủ các thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước để phát triển nhanh hơn số lượng doanh nghiệp mà tăng quy mô của doanh nghiệp. Phải thực hiện cho kỳ được mục tiêu 2 triệu doanh nghiêpChỉ khi tỷ trọng lao động trong doanh nghiệp tăng lên thì NSLĐ mới tăng nhanh và bền vững vì các lý do: (i) người lao động được chăm lo tốt hơn thông qua vai trò của các đoàn thể; (ii) người lao động cam kết lâu dài hơn, nên có động lực để nâng cao năng lực trình độ để tăng NSLĐ; (iii) doanh nghiệp có năng lực tốt hơn trong nâng cao trình độ quản lý, sản xuất, công nghệ để tăng NSLĐ.
- Thứ hai, trọng tâm của chính sách kinh tế trong giai đoạn 2021-2030 nên tập trung vào ngành chế biến chế tạo vì đây là khu vực động lực thúc đẩy NSLĐ cả nền kinh tế. Chỉ khi NSLĐ của ngành chế biến chế tạo tăng lên thì mới có thu nhập tăng thêm để chi tiêu cho ngành dịch vụ qua đó làm tăng NSLĐ ngành dịch vụ, hay nói cách khác NSLĐ ngành dịch vụ là phái sinh theo sau ngành chế biến chế tạo. Thúc đẩy NSLĐ ngành chế biến chế tạo cùng với mở rộng quy mô của ngành sẽ là động lực chính thúc đẩy NSLĐ trong cả nền kinh tế.
- Thứ ba, thực hiện các giải pháp nâng cao NSLĐ nội ngành
+ Hỗ trợ hình thành nên các doanh nghiệp lớn, những sếu đầu đàn dựa trên tiềm lực hiện có của các doanh nghiệp hiện nay để dẫn dắt ngành phát triển theo một chuỗi cung ứng do doanh nghiệp Việt Nam làm chủ như ngành sản xuất ô tô, ngành điện tử, ngành công nghệ thông tin, ngân hàng tài chính, chế biến nông lâm thủy sản, ngành thép,…Đặc biệt chú trọng mở rộng quy mô doanh nghiệp tư nhân, cải thiện NSLĐ doanh nghiệp tư nhân chính sẽ là cú huých lớn cho doanh nghiệp cả nước.
+ Thúc đẩy cụm liên kết ngành thông qua tích tụ các ngành gần nhau vào các KCN, KKT hạn chế sự phân tán nhiều ngành khác nhau vào các KCN, KKT
- Thứ tư, thúc đẩy chuyển dịch lao động từ khu vực có NSLĐ thấp sang khu vực có NSLĐ cao, từ khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức bằng các giải pháp: (i) Chăm lo tốt hơn cho cuộc sống người lao động bằng các chính sách nhà ở xã hội, hỗ trợ không phân biệt hộ khẩu cho con em công nhân lao động trong học tập, tiếp cận, dịch vụ y tế; (ii) nâng cao vai trò của Công đoàn để thực sự là chỗ dựa của người lao động trong việc ổn định cuộc sống nơi di cư đến; (iii) Xử lý hài hòa vấn đề quan hệ lao động, đảm bảo lợi ích chính đáng cho người lao động nhưng cũng đảm bảo lợi ích lâu dài cho nhà đầu tư; (iv) Nâng cao nhận thức cho người lao động về sự cần thiết phải học nghề, học kỹ năng lao động để có đủ điều kiện dịch chuyển lao động. Hiện nay số người học nghề khi bị thất nghiệp rất thấp (trong 85 nghìn người nhận trợ cấp thất nghiệp chỉ có 778 người có ý định học nghề và 487 người thực sự học nghề).
- Thứ năm, thực hiện chính sách tiền lương hiệu quả, cùng với sự phát triển kinh tế cần điều chỉnh tăng lương tối thiểu hợp lý nhằm tạo sức ép doanh nghiệp đổi mới công nghệ, đồng thời người lao động có động lực nâng cao trình độ tay nghề (không nâng cao tay nghề có nguy cơ mất việc, thu nhập thấp). Trên thực tế nếu tiền lương được duy trì ở mức thấp sẽ tạo hiệu ứng ngược lại doanh nghiệp không có nhu cầu đổi mới công nghệ vì vẫn có thể khai thác tiền lương thấp với công nghệ cũ, người lao động không có động lực nâng cao tay nghề vì giá trị của việc nâng cao tay nghề không tương xứng. Trung Quốc luôn chủ động nâng cao TLTT từ 690 tệ năm 2006 lên 2600 tệ/tháng năm 2021 nhưng không làm giảm đầu tư mà ngược lại đầu tư tăng, NSLĐ tăng. Tuy nhiên nếu tăng TLTT quá nhanh có thể làm chùn ý nhà đầu tư do đó trong vấn đề cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chủ doanh nghiệp, công đoàn và cơ quan quản lý nhà nước để tạo ra lợi ích chung.
Phụ lục
Bảng 1: NSLĐ các ngành so với mức trung bình cả nước (%)
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê
Bảng 2: NSLĐ của Việt Nam so với các nước trong khu vực
Nước | Tỷ lệ của Việt Nam |
Singapore | 11,4% |
Malaysia | 35,4% |
Thái Lan | 64,4% |
Indonesia | 79% |
Philippines | 94,5% |
Nguồn: Tính toán từ số liệu WDI của Ngân hàng thế giới
Chú thích:
[i] Những điểm nhấn trong phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam giai đoạn đổi mới (từ năm1986 tới nay) (dangcongsan.org.vn)
[ii] Vai trò của doanh nghiệp nhà nước: Từ góc độ lý luận và thực tiễn Việt Nam (mof.gov.vn)
[iii] Sự gia tăng mạnh của NSLĐ chủ yếu do lao động trong khu vực Nông lâm thủy sản giảm mạnh từ 20,4 triệu lao động năm 2018 xuống còn 13,94 triệu năm 2022, trong đó sút giảm đột ngột từ 17,7 triệu năm 2020 xuống còn 14,3 triệu năm 2021 do ảnh hưởng của Covid-19 hơn 4,3 triệu người trong cả nền kinh tế đã ra khỏi lực lượng lao động trong năm nay.
Trung tâm Thông tin, Phân tích và Dự báo kinh tế