Chủ trì Hội nghị có đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo; đồng chí Nguyễn Thị Thu Hà, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ Ninh Bình. Tham dự có đại diện lãnh đạo một số ban, bộ, ngành Trung ương, thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ Biên tập; đại diện lãnh đạo một số cơ quan, sở, ban, ngành của tỉnh Ninh Bình.
Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị
Phát biểu khai mạc Hội nghị, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Thị Thu Hà cho biết: Ninh Bình đã xác định rõ việc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết 54-NQ/TW là một nhiệm vụ chính trị quan trọng, cần thiết trong việc đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trên địa bàn tỉnh. Sau 17 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, Ninh Bình đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên, để khắc phục những tồn tại, hạn chế, đưa Ninh Bình phát triển trong giai đoạn tiếp theo, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình cũng mong muốn Hội nghị hôm nay là dịp để Ninh Bình được lắng nghe những ý kiến phân tích, đánh giá và góp ý của các đại biểu để không chỉ giúp Ninh Bình hoàn thiện Báo cáo tổng kết Nghị quyết 54-NQ/TW và còn giúp Ninh Bình có thêm những giải pháp, hướng đi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh phù hợp, hiệu quả trong thời gian tới.
Báo cáo tại Hội nghị, đồng chí Phạm Quang Ngọc, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban Cán sự đảng, Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh: Ninh Bình là cửa ngõ cực Nam khu vực đồng bằng Bắc Bộ, ở vị trí ranh giới 3 khu vực địa lý: Tây Bắc, châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Bộ và nằm giao thoa giữa 3 vùng kinh tế: vùng đồng bằng sông Hồng, vùng duyên hải Bắc Bộ và vùng duyên hải miền Trung; có vị trí thuận lợi, là một cầu nối quan trọng trong giao lưu kinh tế - thương mại - du lịch và văn hóa giữa hai miền Nam Bắc. Ngoài ra, Ninh Bình còn có hệ thống sông ngòi, hệ thống cảng thủy nội địa tương đối phát triển, có điều kiện thuận lợi về vận tải, thông thương với các tỉnh trong cả nước và quốc tế, tạo lợi thế độc đáo để phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là lĩnh vực công nghiệp, du lịch, dịch vụ, lưu thông hàng hóa, giao lưu văn hóa...
Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Thị Thu Hà phát biểu tại hội nghị
Vượt qua diễn biến phức tạp của thiên tai, thời tiết, dịch bệnh cũng như những biến động bất thường về giá cả, lạm phát, chính trị thế giới đặc biệt là ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và đại dịch Covid-19; Song, với tinh thần đoàn kết, thống nhất, sáng tạo, đổi mới, dám nghĩ, dám làm, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đã từng bước khắc phục khó khăn, để kiên định hướng đi và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, huy động các nguồn lực, thực hiện nhiều quyết sách đúng đắn để tổ chức thực hiện. Do vậy, kinh tế xã hội của tỉnh qua các giai đoạn có nhiều khởi sắc, phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đồng chí Phạm Quang Ngọc, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban Cán sự đảng, Chủ tịch UBND tỉnh phát biểu tại hội nghị
Tham dự và phát biểu đóng góp ý về Báo cáo tổng kết của Ninh Bình, nhất là phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp cũng như kiến nghị, đề xuất của tỉnh Ninh Bình, các thành viên Ban Chỉ đạo; đại diện lãnh đạo một số ban, bộ, ngành Trung ương đã tập trung vào một số nội dung quan trọng như: Báo cáo tổng kết Nghị quyết 54-NQ/TW của tỉnh Ninh Bình; Những định hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh trong thời gian tới. Các ý kiến cũng cho rằng, cần khơi thông nguồn lực phát triển du lịch của Ninh Bình, phát triển từ nâu sang xanh; công tác quy hoạch cần đi trước một bước.
Các đại biểu dự hội nghị
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương bày tỏ vui mừng vì Ninh Bình là một trong hai tỉnh, thành đầu tiên tổ chức Hội nghị tổng kết Nghị quyết 54-NQ/TW và kết luận 13-KL/TW. Đồng chí nhấn mạnh, nhằm triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị về việc tổng kết các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh các vùng kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương được giao chủ trì Đề án Tổng kết Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 14/9/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Kết luận số 13-KL/TW ngày 28/10/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW (Nghị quyết số 54-NQ/TW và Kết luận số 13-KL/TW).
Để triển khai Đề án, Ban Kinh tế Trung ương đã phối hợp chặt chẽ với 20 Ban Cán sự đảng, Đảng ủy trực thuộc Trung ương và thường trực tỉnh ủy, thành ủy của 11 địa phương trong vùng để thành lập Ban Chỉ đạo và ban hành Kế hoạch số 84-KH/BKTTW, ngày 20/5/2022 phục vụ việc tổng kết; trong đó Hội nghị tổng kết và Báo cáo tổng kết của địa phương là một trong những cơ sở quan trọng để Ban Chỉ đạo đề xuất Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới phù hợp với các chủ trương, định hướng mới của Đảng và bối cảnh, tình hình mới về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.
Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết số 54-NQ/TW và Ban Kinh tế Trung ương, đồng chí Trần Tuấn Anh đánh giá cao trách nhiệm của Tỉnh ủy Ninh Bình trong triển khai nhiệm vụ tổng kết và ghi nhận sự tham dự của các đồng chí lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương, các thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ Biên tập và các đại biểu của tỉnh.
Đồng chí cũng cho rằng, về cơ bản, Dự thảo Báo cáo tổng kết của Ninh Bình đã bám sát các nội dung Nghị quyết 54-NQ/TW và yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra của Ban Chỉ đạo, đánh giá được việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai Nghị quyết của các cấp ủy đảng; làm rõ kết quả đạt được sau gần 17 năm thực hiện Nghị quyết; chỉ ra 03 nhóm tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân; rút ra 03 bài học kinh nghiệm; phân tích bối cảnh trong nước, quốc tế; những khó khăn, thách thức đối với địa phương, vùng; đề ra 11 nhóm nhiệm vụ, giải pháp và và 03 nhóm kiến nghị nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.
Trong 17 năm qua, Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đã bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp được nêu trong Nghị quyết 54-NQ/TW và Kết luận số 13- KL/TW, gắn thực hiện Nghị quyết 54-NQ/TW với các đường lối chủ trương tại các Nghị quyết khác của Đảng; vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành; cụ thể hóa nội dung Nghị quyết thành các kế hoạch, chương trình, đề án và đã hoàn thành được phần lớn các chỉ tiêu, mục tiêu đề ra trên địa bàn tỉnh. Những thành tựu, kết quả đạt được cho thấy Nghị quyết 54-NQ/TW đã đi vào cuộc sống và sau 17 năm thực hiện Nghị quyết 54-NQ/TW, kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình đã thay đổi rõ nét, nhiều chỉ tiêu kinh tế- xã hội gấp hàng chục lần so với 2005. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong tỉnh không ngừng được cải thiện.
Đồng chí nêu rõ một số thành tựu, kết quả đạt được nổi bật như:
Thứ nhất, kinh tế phát triển nhanh, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2005-2020 (theo giá SS 2010) tăng bình quân 11,04%/năm, đạt mục tiêu Nghị quyết 54-NQ/TW là 11-12%. GRDP bình quân đầu người tăng từ 5,57 triệu đồng năm 2005 lên 71,5 triệu đồng năm 2021, tăng gấp 12,8 lần.
Thứ hai, cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch tích cực, theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, dịch vụ; giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp đúng định hướng của Nghị quyết 54-NQ/TW; đến hết năm 2021, tỷ trọng ngành Nông nghiệp - Công nghiệp xây dựng - Dịch vụ lần lượt là 11,5%- 47,2% - 41,3%. Sản xuất công nghiệp khẳng định vai trò là động lực của tăng trưởng với đóng góp trên 50% tổng số thu ngân sách, trong đó đóng góp lớn của các ngành sản xuất linh kiện điện tử, sản xuất lắp rắp ô tô, công nghiệp phụ trợ, nổi bật là liên doanh ô tô Huyndai và Tập đoàn Thành Công, nhà máy sản xuất kính xây dựng CFG…
Thứ ba, thu ngân sách nhà nước đạt nhiều kết quả nổi bật, đến năm 2020 đạt 22.586 tỷ đồng, gấp 34,71 lần so với năm 2005; tăng trưởng bình quân thu ngân sách hàng năm của tỉnh giai đoạn 2005-2020 đạt 26,67%/năm. Năm 2021, tổng thu NSNN trên địa bàn đạt 22.094 tỷ đồng, đứng thứ 14 trong 63 tỉnh, thành phố của cả nước, trong đó số thu nội địa đứng thứ 16/63 tỉnh, thành phố. Đến năm 2022 tỉnh Ninh Bình đã tự cân đối ngân sách.
Thứ tư, hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm, đầu tư, tập trung triển khai dứt điểm những dự án lớn tạo kết cấu hạ tầng đồng bộ, kết nối vùng, liên vùng như tuyến đường cao tốc Bắc - Nam đoạn qua Ninh Bình, tuyến đường Bái Đính - Ba Sao, tuyến đường bộ ven biển,... Hạ tầng du lịch được đầu tư với nhiều khu điểm du lịch tầm cỡ quốc gia, quốc tế; hạ tầng nông nghiệp, phát triển nông thôn và phòng, chống lụt bão, ứng phó biến đổi khí hậu đầu đầu tư, nâng cấp.
Quang cảnh hội nghị
Thứ năm, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được quan tâm; nguồn ô nhiểm dần được kiểm soát nhất là tại các khu công nghiệp và đô thị; công tác quản lý đất đai đạt được nhiều kết quả. Quản lý nhà nước về đa dạng sinh học, ứng phó với biến đổi khí hậu từng bước được triển khai. Quản lý, khai thác, chế biến khoáng sản ngày càng được chú trọng theo hướng tiết kiệm, hiệu quả, gắn với bảo vệ môi trường.
Thứ sáu, văn hóa - xã hội được quan tâm, đạt nhiều kết quả tích cực; bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy. Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân được tăng cường, nhiều chỉ số cơ bản về y tế và sức khỏe của nhân dân đạt mức cao hơn so với bình quân chung cả nước. An sinh xã hội được đảm bảo; tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng nhanh; giải quyết việc làm trung bình mỗi năm 19.000 lao động. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi khu vực thành thị giảm từ 3,91% năm 2005 xuống còn 1,3% năm 2020 vượt mục tiêu Nghị quyết 54-NQ/TW đề ra. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt.
Thứ bảy, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững, ổn định; thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được củng cố; hoạt động đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tội phạm, bài trừ tai nạn, tệ nạn xã hội được tăng cường với nhiều giải pháp hiệu quả... qua đó tạo môi trường ổn định, an toàn cho phát triển kinh tế - xã hội và thu hút đầu tư.
Thứ tám, công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị có tiến bộ; nội bộ đoàn kết, nhất trí, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, đồng chí Trần Tuấn Anh cũng nhất trí với một số tồn tại hạn chế mà Báo cáo tổng tổng kết của Ninh Bình cũng như các bộ, ngành chỉ ra như:
Một là, Quy mô kinh tế nhỏ so với các tỉnh trong khu vực; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; tốc độ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng; chưa phát triển được kinh tế ven biển; kết quả xây dựng nông thôn mới chưa thực sự bền vững. Quản lý và phát triển kinh tế vùng ven biển còn hạn chế. Phát triển du lịch chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh; Thu hút đầu tư, quản lý nhà nước về đất đai, môi trường còn hạn chế.
Hai là, Quản lý nhà nước về văn hóa cơ sở, tôn giáo, tín ngưỡng, thông tin truyền thông có mặt còn hạn chế. Chất lượng các chương trình trong giáo dục đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm còn chưa cao; một số ngành nghề đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động. Công tác giảm nghèo ở một số địa phương chưa vững chắc, có nguy cơ tái nghèo. Cơ sở hạ tầng của một số cơ sở y tế xuống cấp. Công tác quản lý nhà nước về y, dược tư nhân và an toàn thực phẩm còn hạn chế. Khoa học công nghệ chưa thực sự là động lực và nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội, cho tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và tăng năng suất lao động.
Ba là, Công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc triển khai thực hiện nhiệm vụ quốc phòng quân sự địa phương có nơi chưa tích cực. Xây dựng các công trình trong khu vực phòng thủ còn hạn chế. Tệ nạn ma túy, cờ bạc, nhất là đánh bạc sử dụng công nghệ cao gắn với các hoạt động “tín dụng đen”, ảnh hưởng tiêu cực của mạng xã hội còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp.
Đồng chí Trần Tuấn Anh nhấn mạnh, nhiệm vụ quan trọng nhất mà tổng kết Nghị quyết 54-NQ/TW được Ban Chỉ đạo đặt ra là đề xuất được với Bộ Chính trị ban hành 01 Nghị quyết nhằm phát triển vùng đồng bằng sông Hồng thời gian tới phù hợp với bối cảnh, tình hình mới, nhất là thực tiễn phát triển của vùng, do vậy, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương yêu cầu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh liên kết phát triển vùng; phát huy vị trí địa lý, tiềm năng, chủ động hội nhập, mở rộng giao lưu kinh tế để tăng cường liên kết vùng nhất là với các địa phương tiểu vùng Nam Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung bộ. Khai thác các cơ hội từ các xu hướng phát triển kinh tế trong nước, thế giới; hoàn chỉnh mạng lưới hạ tầng khung kết nối đồng bộ để trở thành đầu mối giao lưu của khu vực phía nam vùng đồng bằng sông Hồng và với các vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ và vùng Bắc Trung Bộ. Liên kết với các địa phương để phát triển hành lang kinh tế ven biển Ninh Bình-Nam Định-Thái Bình nối tiếp với vành đai kinh tế ven biển Vịnh Bắc Bộ là Hải Phòng Quảng Ninh để phát triển vùng kinh tế ven biển Kim Sơn theo hướng khu kinh tế tổng hợp ven biển và trở thành động lực, không gian và là một cực tăng trưởng mới của Tỉnh. Tăng cường liên kết các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Hồng để khai thác hiệu quả hơn các Hành lang, vành đai kinh tế, các khu, cụm công nghiệp, các thắng cảnh du lịch tầm quốc gia, quốc tế,các trục đường giao thông liên vùng kết nối với thủ đô Hà Nội và các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng.
Thứ hai, coi trọng tâm phát triển kinh tế biển
Thứ ba, phát triển về đô thị và đô thị hóa của Ninh Bình
Thứ tư, khắc phục các hạn chế, yếu kém và tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và tích hợp lại thành “dư địa” để khai thác phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh. Tiếp tục cải cách hành chính, tinh giản các thủ tục hành chính ở tất cả các cấp; xử lý tháo gỡ các vướng mắc các dự án chậm tiến độ, khơi thông nguồn lực đất đai. Đẩy mạnh xúc tiến, thu hút đầu tư, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn để huy động tổng hợp các nguồn lực, thu hút được các nhà đầu tư lớn, các tập đoàn đa quốc gia; quan tâm thu hút các nguồn lực trong và ngoài ngân sách phục vụ phát triển địa phương thời gian tới. Kiểm soát chặt chẽ môi trường đặc biệt là quản lý và khai thác tài nguyên du lịch, tài nguyên khoáng sản. Nâng cao chất lượng nhân lực, tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo, chú trọng đào tạo nghề chất lượng cao, nhất là nhân lực ngành du lịch
Thứ năm, tập trung đẩy mạnh cơ sở hạ tầng số, công nghệ số
Thứ sáu, tập trung phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ
Đồng chí Trần Tuấn Anh cũng yêu cầu tỉnh Ninh Bình tập trung hoàn thành một số nhiệm vụ:
Sớm hoàn thành nhiệm vụ lập quy hoạch tỉnh Ninh Bình thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050. Quy hoạch phải đảm bảo có tầm nhìn dài hạn, phù hợp với quy hoạch vùng, quy hoạch quốc gia, quy hoạch sử dụng đất. Quy hoạch phải trở thành công cụ quản lý, tạo động lực, không gian phát triển, là là cơ sở để quản lý và thu hút các nguồn lực đầu tư và quy hoạch xây dựng các huyện, đô thị và nông thôn. Nội dung quy hoạch cần có sự thống nhất và phân chia một cách hợp lý mục tiêu phát triển, khai thác hiệu quả các lợi thế và bố trí đầy đủ nguồn lực để phát triển tỉnh Ninh Bình trở thành trung tâm du lịch của vùng và cả nước, có cơ cấu kinh tế tiên tiến, đầu mối giao lưu của khu vực phía nam vùng đồng bằng sông Hồng với các vùng Tây Bắc và vùng Bắc Trung Bộ; là một cực tăng trưởng của hành lang kinh tế ven biển Ninh Bình - Nam Định -Thái Bình. Quy hoạch phải bảo đảm phát triển toàn diện, có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý giữa bảo tồn và phát triển, có sự thống nhất giữa kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; bảo đảm sự liên kết giữa các ngành, các không gian kinh tế; khai thác, sử dụng có hiệu quả nhất kết cấu hạ tầng hiện có; phát triển đô thị theo hướng thông minh, bền vững, bản sắc và kết nối quốc tế, bảo vệ môi trường, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
Tập trung thực hiện các Nghị quyết để phát huy hơn nữa tiềm năng để phát triển Ninh Bình trở thành tỉnh khá, phát triển toàn diện, nhanh và bền vững. Đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu các ngành kinh tế của tỉnh theo hướng lấy phát triển công nghiệp làm trọng tâm, du lịch là mũi nhọn; khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên du lịch, tài nguyên khoáng sản; khai thác cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng công nghệ cao, công nghệ sạch, thân thiện với môi trường theo hình thức cụm liên kết ngành, nhóm sản phẩm chuyên môn hóa. Phát triển nông nghiệp theo hướng sạch, xanh, hữu cơ, an toàn, chú trọng đầu tư nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; thúc đẩy phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại với quy mô lớn gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị. Đa dạng hóa các sản phẩm du lịch; đầu tư chuyển đổi số để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và Ninh Bình trở thành trung tâm du lịch lớn của của cả nước và khu vực, trến cơ sở khai thác hiệu quả các danh lam thắng cảnh đẹp, các giá trị truyền thống lịch sử văn hóa và các giá trị phi vật thể đặc biệt là Quần thể danh thắng Tràng An. Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, gắn với nâng cao chất lượng đô thị; đầu tư, nâng cấp và hoàn chỉnh hệ thống đô thị theo hướng thông minh, hiện đại, bền vững và bảo tồn được những giá trị văn hoá truyền thống và kết nối thuận lợi với hệ thống đô thị vùng Nam Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ.
Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của các cấp ủy và nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng vững mạnh toàn diện; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của các cấp ủy kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tiếp tục tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; khắc phục chồng chéo, trùng lắp chức năng, nhiệm vụ; đẩy mạnh tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín; kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ.
Tăng cường thực hiện nhiệm vụ kết hợp quốc phòng an ninh với phát triển kinh tế - xã hội. Duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm an toàn các mục tiêu, công trình trọng điểm, sự kiện chính trị - xã hội quan trọng; tăng cường công tác bảo vệ an ninh. Thực hiện nghiêm các nhiệm vụ về công tác quốc phòng, quân sự địa phương, xây dựng khu vực phòng thủ, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, quy hoạch, bố trí quốc phòng và xây dựng các công trình phòng thủ lâu dài. Tích cực đấu tranh phòng, chống tội phạm; dảm bảo an toàn tuyệt đối các sự kiện của tỉnh, của Trung ương và quốc tế tổ chức trên địa bàn.
Bám sát Kế hoạch, Đề cương của Ban Chỉ đạo và ý kiến tham gia, thảo luận tại Hội nghị để hoàn thiện Báo cáo tổng kết Nghị quyết 54-NQ/TW trên địa bàn tỉnh đảm bảo chất lượng và tiến độ đề ra. Lưu ý một số nội dung sau: (i) Cung cấp số hiệu, ngày ban hành các Chương trình và Kế hoạch hành động triển khai Nghị quyết 54- NQ/TW và Kết luận số 13-KL/TW của Tỉnh ủy vào Báo cáo; (ii) Bổ sung số liệu và đánh giá về các chỉ tiêu đánh giá quy mô và chất lượng tăng trưởng như: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội, năng suất lao động, năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP)… như Đề cương của Ban Chỉ đạo; (iii) Rà soát và bổ sung các đánh giá theo các phân kỳ tổng kết như Đề cương theo các giai đoạn: 2005-2019 để phản ánh thực trạng phát triển của tỉnh khi chưa chịu tác động của đại dịch Covid 19; giai đoạn 2005-2020 để đảm bảo đúng theo thời gian thực hiện như Nghị quyết đề ra; năm 2021 để đảm bảo tính cập nhật tình hình kinh tế xã hội của Tỉnh; (iv) bổ sung làm rõ hơn các hạn chế về chất lượng và tổ chức thực hiện quy hoạch còn bất cập, về tỷ lệ đô thị hóa còn quá thấp, về phân bổ và sử dụng các nguồn lực tại địa phương chưa phù hợp, về cải cách hành chính chậm cải thiện; hành lang pháp lý thực hiện liên kết vùng còn bất cập... (v) Định vị rõ hơn tỉnh Ninh Bình trong tương quan so sánh với các địa phương khác trong vùng nhất là về định hướng phát triển các ngành đang có thế mạnh như: phát triển các ngành công nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô, công nghiệp hỗ trợ phục vụ cho ngành công nghiệp ô tô, điện tử, cơ khí chế tạo, công nghiệp chế biến phục vụ sản xuất nông nghiệp; phát triển du lịch văn hóa - tâm linh, du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng…..(vi) Bổ sung thêm nhận định, đánh giá về kết quả liên kết phát triển tiểu Nam đồng bằng sông Hồng, vùng Đồng bằng sông Hồng trong thời gian qua; những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ nhằm thúc đẩy phát triển liên kết tiểu vùng, toàn vùng đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045.
Đối với một số kiến nghị của Tỉnh, đồng chí yêu cầu, ngoài những vấn đề đã được lãnh đạo các bộ, ngành trả lời, trao đổi tại Hội nghị, Ban Chỉ đạo giao Thường trực Tổ Biên tập Đề án tổng hợp, báo cáo Ban Chỉ đạo để chắt lọc đưa vào Báo cáo tổng kết Nghị quyết 54-NQ/TW hoặc chuyển cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo đề nghị của Tỉnh.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 22 (nhiệm kỳ 2020-2025) đã xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, Ninh Bình trở thành tỉnh khá của vùng đồng bằng sông Hồng, phát triển toàn diện, nhanh và bền vững; du lịch từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và Ninh Bình trở thành trung tâm du lịch của cả nước và cả khu vực. Ninh Bình đang xây dựng quy hoạch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó xác định tầm nhìn 2050 hướng tới 03 đích lớn:
|
Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế