Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các chuyên gia, nhà khoa học,
Thưa Bà Victoria Kwawa, Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam
Thưa các vị khách quốc tế, quý vị đại biểu và toàn thể Hội thảo!
Hôm nay, được sự đồng ý của Thường trực Ban Bí thư, Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đồng tổ chức Hội thảo quốc tế "Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và đổi mới, phát triển doanh nghiệp". Thay mặt cho các cơ quan tổ chức Hội thảo, tôi xin nhiệt liệt chào mừng quý vị đại biểu quốc tế, đại diện các bộ, ban, ngành Trung ương, các hiệp hội ngành nghề và đông đảo cộng đồng doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, các cơ quan thông tấn báo chí, truyền thông đã đến tham dự Hội thảo ý nghĩa của chúng ta hôm nay!
Thưa quý vị đại biểu!
Nói đến năng lực cạnh tranh quốc gia là đề cập đến tổng hợp thể chế, chính sách và các nhân tố quyết định mức độ hiệu quả, tính năng suất của một quốc gia. Một nền kinh tế có năng suất, hiệu quả là nền kinh tế có năng lực sử dụng, khai thác tốt các nguồn lực có hạn. Nói cách khác, bản chất của năng lực cạnh tranh quốc gia là năng lực vận hành nền kinh tế có hiệu quả, với chi phí hợp lý nhất mang lại kết quả thịnh vượng và bền vững tối đa nhất. Trong giai đoạn 2006 - 2015, Chỉ số Năng lực cạnh tranh Toàn cầu đánh giá năng lực cạnh tranh thông qua 12 chỉ số trụ cột được phân vào 3 nhóm: Nhóm 1- Các chỉ số phản ánh các yêu cầu căn bản của một nền kinh tế, gồm: (1) Thể chế; (2) Cơ sở hạ tầng; (3) Môi trường kinh tế vĩ mô; (4) Y tế và Giáo dục tiểu học. Nhóm 2 - Các chỉ số để nền kinh tế phát triển theo hướng chất lượng, hiệu quả gồm: (5) Giáo dục và đào tạo sau tiểu học; (6) Hiệu quả thị trường hàng hóa; (7) Hiệu quả thị trường lao động; (8) Trình độ phát triển của thị trường tài chính; (9) Sẵn sàng công nghệ và (10) Quy mô thị trường. Nhóm 3 - Các chỉ số phản ánh trình độ của doanh nghiệp và năng lực đổi mới sáng tạo gồm: (11) Trình độ kinh doanh; (12) Năng lực đổi mới sáng tạo. Mặc dù 12 chỉ số trụ cột được đo lường riêng biệt, nhưng trên thực tế, các trụ cột này và các chỉ số thành phần đều liên quan đến nhau và tương tác, hỗ trợ cho nhau. Ba đột phá chiến lược của Việt Nam đã phản ánh tới 9 trong số 12 chỉ số trụ cột. Với 3 trụ cột còn lại (mức độ sẵn sàng công nghệ, trình độ kinh doanh và năng lực đổi mới sáng tạo) phụ thuộc vào chính sách khoa học công nghệ và chính sách phát triển doanh nghiệp. Đây là những trọng tâm chính trong hoạch định chính sách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong giai đoạn tới.
Thưa quý vị đại biểu!
Năng lực cạnh tranh quốc gia có mối tương quan mật thiết với môi trường kinh doanh và phát triển các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân, trọng yếu là đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp khởi nghiệp. Hoàn thiện và đảm bảo hiệu lực, hiệu quả thực thi các quy định pháp luật cũng như các cơ chế, chính sách tạo thuận lợi hoạt động kinh doanh không chỉ góp phần nâng cao năng suất, chất lượng hoạt động của các loại hình doanh nghiệp nói trên, mà còn thúc đẩy phân bổ nguồn lực một cách minh bạch và do vậy, trực tiếp và gián tiếp nâng cao năng suất của nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đổi mới, phát triển doanh nghiệp đã được đề cập nhất quán trong các chủ trương, chính sách của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh nhóm chính sách tạo thuận lợi thúc đẩy môi trường kinh doanh, đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp.
Tuy nhiên, trong điều kiện đổi mới mô hình tăng trưởng, chú trọng nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của từng chủ thể kinh tế, cơ chế chính sách đối với các loại hình doanh nghiệp nêu trên còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả thực thi còn thấp. Năng suất, hiệu quả của nền kinh tế không cao. Tính liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài còn yếu. Khoảng cách giữa chủ trương chính sách với thực thi trên thực tế còn lớn. Phát triển các yếu tố thị trường và các loại thị trường còn nhiều vướng mắc, chưa được khơi thông. Đây cũng là những nguyên nhân cơ bản làm cho môi trường kinh doanh của Việt Nam chưa được thuận lợi, năng lực cạnh tranh quốc gia còn hạn chế.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ trọng tâm là "Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng";..... "hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước".
Tại Hội thảo quốc tế lần này, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu của Ban Kinh tế Trung ương, chúng tôi xin gợi mở, đề nghị các đại biểu tập trung thảo luận, phân tích, đánh giá làm rõ hơn một số nhóm vấn đề và các đề xuất, kiến nghị về các giải pháp để tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia gắn liền với đổi mới, phát triển các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa và doanh nghiệp khởi nghiệp, cụ thể:
- Một là, nhóm vấn đề về thể chế kinh tế và thực thi thể chế kinh tế, tập trung về các giải pháp đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy tinh thần quốc gia khởi nghiệp gắn với thực hiện Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp sửa đổi, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp của Việt Nam, tăng cường khởi sự doanh nghiệp, giảm thiểu chi phí giao dịch phi chính thức, công khai, minh bạch, tích cực phòng, chống tham nhũng trong nền kinh tế. Tăng cường hiệu quả thực hiện vai trò của Nhà nước trong kiến tạo, định hướng phát triển hoạt động đầu tư - kinh doanh của doanh nghiệp theo cơ chế thị trường.
- Hai là, nhóm các vấn đề kinh tế vĩ mô, gồm: (1) Tính bền vững môi trường kinh tế vĩ mô; (2) Thực trạng về năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam.
- Ba là, nhóm các vấn đề tiếp cận nguồn lực và thị trường, tập trung vào các giải pháp tăng cường tạo thuận lợi tiếp cận và phát triển các yếu tố nguồn lực và thị trường, tập trung vào phát triển thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ và quyền sở hữu trí tuệ, cơ sở hạ tầng, tăng cường liên kết, hợp tác và kết nối thị trường giữa các ngành kinh tế, chủ thể kinh tế, nhất là các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, giữa các vùng kinh tế, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế.
- Bốn là, trên cơ sở phân tích các nguyên nhân khách quan, chủ quan và các nhóm vấn đề chủ yếu nói trên; xem xét, kiến nghị Chính phủ, các bộ, ngành các biện pháp tổ chức triển khai thực hiện, nhất là khả năng ban hành, tổ chức thực hiện Đề án tổng thể về nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và Chương trình khởi nghiệp quốc gia.
Ngay sau hội thảo, Ban Tổ chức sẽ có báo cáo tổng quan về kết quả hội thảo, trong đó nêu rõ các kiến nghị đề xuất cụ thể báo cáo Thường trực Ban Bí thư, Chính phủ và các bộ, ngành, cơ quan liên quan để nghiên cứu, triển khai.
Một lần nữa, thay mặt các cơ quan tổ chức, tôi xin kính chúc các vị khách quốc tế, quý vị đại biểu, khách quý, toàn thể các đồng chí mạnh khoẻ, hạnh phúc và thành đạt! Chúc Hội thảo thành công tốt đẹp!
Xin trân trọng cảm ơn!