CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP THÚC ĐẨY CHUYỂN NỀN
CÔNG NGHIỆP GIA CÔNG SANG NỀN CÔNG NGHIỆP CHẾ TẠO
INDUSTRIAL POLICIES TO PROMOTE THE SHIFT FROM PROCESSING INDUSTRY TO MANUFACTURING INDUSTRY
Prof. Dr. Nguyen Ke Tuan
National Econimics University
Bên cạnh những đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, sự phát triển công nghiệp cũng bộc lộ ngày càng rõ những yếu kém về năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh. Biểu hiện tập trung nhất của tình trạng này là nền công nghiệp còn mang nặng tính chất gia công/lắp ráp với giá trị gia tăng thấp và lệ thuộc vào nước ngoài. Chuyển công nghiệp từ tình trạng này thành nền công nghiệp chế tạo, thực hiện các khâu phức tạp có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu là một trong những nội dung trọng yếu của tái cơ cấu công nghiệp, bảo đảm công nghiệp thực sự trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Từ phân tích tính chất gia công/lắp ráp của công nghiệp chế biến, chế tạo Việt Nam và những nguyên nhân cơ bản của việc chậm trễ trong việc giảm dần tính chất này, bài viết tập trung trình bày hai khuyến nghị chính sách cơ bản để thúc đẩy chuyển từ nền công nghiệp mang nặng tính chất gia công/lắp ráp sang nền công nghiệp chế tạo có giá trị gia tăng cao. Đó là: Xác định rõ yêu cầu chuyển từ nền công nghiệp gia công/lắp ráp sang nền công nghiệp chế biến, chế tạo là một trong những trọng tâm của tái cơ cấu công nghiệp; thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ.
Abstract
Over the past years, besides positive contributions to socio-economic development of the country, industrial development has also revealed more clearly weaknesses in terms of productivity, quality, efficiency and competitiveness. The most obvious manifestation of this situation is that the industry focuses heavily on processing/assembly with low added value, and depends on foreign resources. Transforming this industry into manufacturing industry and involving complicated stages with high added value in the global value chain are the essence of industrial restructuring to ensure that industry truly becomes a solid foundation of the national economy.
From the analysis of characteristics of Vietnam's manufacturing industry and the underlying causes of delays in overcoming these weaknesses, this paper focuses on two policy recommendations to promote the shift from a processing/assembly industry to a high value-added manufacturing industry. They are: Specifying requirements to shift from the processing/assembly industry to manufacturing industry is one of key tasks of industrial restructuring; and promoting the development of supporting industries.
Trong những năm qua, công nghiệp Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng luôn đạt mức cao hơn mức tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế, quy mô ngày càng mở rộng, trình độ công nghệ dần dần được nâng cao. Năm 2010, Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của công nghiệp tính theo giá so sánh 2010 đạt 560.732 tỷ đồng, đến năm 2015 đã đạt 810.438 tỷ đồng, tăng 1,45 lần. Công nghiệp đã trở thành trụ cột của nền kinh tế quốc dân, góp phần to lớn vào việc nâng cao năng lực kinh tế của đất nước và thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế khác. Trong quá trình phát triển, cơ cấu nội tại của công nghiệp đang chuyển dịch theo hướng: giảm tỷ trọng giá trị các ngành khai thác, tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo. Nếu năm 2010, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP chiếm 12,95%, thì đến năm 2015, tỷ trọng này đã đạt mức 13,69%5. Tỷ trọng các sản phầm công nghiệp chế biến, chế tạo trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu cũng không ngừng gia tăng. Trong 175,9 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu năm 2016, nhóm hàng công nghiệp đã chiếm tới 82,4%, trong đó nhóm hàng công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp chiếm 40,4%6.
Trong khi khẳng định những kết quả tích cực đó, cũng cần thấy rằng công nghiệp Việt Nam vẫn ở trình độ thấp kém, chưa bảo đảm nền tảng cho sự phát triển có hiệu quả và bền vững của bản thân nó và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp chế biến, chế tạo có sự phát triển nhất định, nhưng vẫn mang đậm tính chất của nền công nghiệp gia công/lắp ráp, lệ thuộc vào nước ngoài. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP của Việt Nam còn thấp xa so với các nước trong khu vực7.
Trong công nghiệp chế biến, chế tạo, các ngành có trình độ công nghệ thấp, thực hiện gia công – lắp ráp sản phẩm lại chiếm tỷ trọng cao và có xu hướng phát triển mạnh. Đó là trường hợp của các ngành điện thoại, máy tính, dệt may, da giầy.
Năm 2016, xuất khẩu điện thoại và linh kiện đạt 34,5 tỷ USD, tăng 14,4% so với năm 2015 và chiếm 19,61% tổng kim ngạch xuất khẩu. Kim ngạch này chủ yếu do đóng góp của các nhà máy của Samsung đầu tư ở Việt Nam thực hiện lắp ráp linh kiện nhập khẩu từ nước ngoài. Xuất khẩu hàng may mặc đạt 23,6 tỷ USD, tăng 3,3% so với năm 2015 và chiếm 13,42% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, tỷ trọng xuất khẩu dưới hình thức gia công chiếm trên 75%8.
Việc phát triển công nghiệp chế biến dưới hình thức gia công/lắp ráp tuy tạo được tốc độ tăng trưởng khá cao, đóng góp lớn vào tổng kim ngạch xuất khẩu và tạo thêm được nhiều việc làm, nhưng những nhược điểm là năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp kém và lệ thuộc vào nước ngoài về các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Trên thực tế, một số ngành công nghiệp Việt Nam đã tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu nhưng với thường chỉ thực hiện các khâu giản đơn, giá trị gia tăng thấp.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.
Nguyên nhân cơ bản nằm trong chính mô hình tăng trưởng mà Việt Nam đã theo đuổi trong những năm qua: tăng trưởng theo chiều rộng dựa trên cơ sở tăng vốn đầu tư, khai thác lợi thế về tài nguyên và sức lao động giản đơn. Là bộ phận trọng yếu trong cơ cấu ngành kinh tế, đầu tàu và động lực tăng trưởng của cả nền kinh tế quốc dân, lẽ ra công nghiệp phải là ngành đi tiên phong trong việc chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu, nhưng bị chi phối bởi mô hình tăng trưởng này, sự phát triển công nghiệp cũng không thoát khỏi ràng buộc của mô hình tăng trưởng chung của nền kinh tế và tư duy coi trọng số lượng hơn chất lượng.
Một nguyên nhân khác là khiếm khuyết trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
FDI đã được đánh giá là một trong những trụ cột góp phần vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên đến nay, phần lớn các doanh nghiệp có vốn FDI tập trung vào khai thác lợi thế giá nhân công rẻ, lắp ráp, gia công sản phẩm tiêu thụ trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Trong cơ cấu kim ngạch xuất khẩu những năm gần đây, các doanh nghiệp có vốn FDI đóng góp tới trên 2/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, trong đó chủ yếu là những mặt hàng gia công, lắp ráp đơn giản (điện thoại, máy tính, quần áo, giày dép…). Hơn nữa, sự liên kết giữa các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp nội địa còn hạn chế. Do vậy, chưa hình thành được chuỗi liên kết sản xuất, cung ứng hàng hoá và công nghiệp hỗ trợ trong nước.
Sự yếu kém của các ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước được coi là một nguyên nhân quan trọng hạn chế sự phát triển có hiệu quả của công nghiệp chế biến, chế tạo.
Sự yếu kém của các ngành công nghiệp hỗ trợ thể hiện qua tỷ lệ linh kiện, phụ kiện sản xuất trong nước mới chỉ đạt bình quân 27,8%, trong khi đó Thái Lan đã đạt 60% và Trung Quốc đạt trên 50%. Ngành công nghiệp ôtô đặt mục tiêu năm 2020 tỷ lệ nội địa hóa đạt 60%, nhưng hiện chỉ đạt khoảng 7% - 8%...Sự yếu kém này dẫn tới hàng loạt hệ lụy tiêu cực: năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản xuất công nghiệp thấp kém; gia tăng tình trạng lệ thuộc vào nước ngoài; khó khăn trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài…
Sự yếu kém trong khả năng sáng tạo của nguồn nhân lực cũng được coi là một trong những nguyên nhân quan trọng của việc chậm trễ chuyển từ trình độ gia công/lắp ráp sang trình độ chế biến, chế tạo thực thụ.
Sự thành công của Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và Trung Quốc trong việc chuyển từ nền công nghiệp gia công/lắp ráp sang công nghiệp chế tác, suy đến cùng, là nhờ khả năng sáng tạo của nguồn nhân lực. Ở cấp độ vĩ mô, đó là việc phát huy tính tích cực của nền công nghiệp gia công/lắp ráp trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, kịp thời chuyển hướng chiến lược sang phát triển công nghiệp chế tác bằng việc chú trọng đầu tư cho khâu nghiên cứu – phát triển, phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ở cấp độ vi mô, đó là việc điều chỉnh định hướng chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, mở rộng dần phạm vi tham gia vào các khâu phức tạp và có giá trị cao trong chuỗi giá trị sản phẩm.
Ở Việt Nam, nguồn nhân lực quản lý, điều hành các cấp và công nhân trực tiếp sản xuất ở các doanh nghiệp có chất lượng thấp và chậm được cải thiện là yếu tố cản trở trực tiếp việc chuyển từ nền công nghiệp mang nặng tính chất gia công/lắp ráp sang phát triển nền công nghiệp chế tạo với giá trị gia tăng cao.
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CHUYỂN TỪ NỀN CÔNG NGHIỆP GIA CÔNG SANG NỀN CÔNG NGHIỆP CHẾ TẠO TRONG QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU CÔNG NGHIỆP
Chuyển từ nền công nghiệp gia công/lắp ráp sang nền công nghiệp chế tạo là một quá trình phức tạp, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiểu giải pháp từ phía Nhà nước và phía các nhà đầu tư. Trong bài viết nhỏ này, chỉ đề cập tới hai giải pháp chính sách cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xác định rõ yêu cầu chuyển từ nền công nghiệp gia công/lắp ráp sang nền công nghiệp chế biến, chế tạo là một trong những trọng tâm của tái cơ cấu công nghiệp.
Mục tiêu tổng quát của Đề án tổng thể Tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 339/2013/QĐ-TTg là "Thực hiện tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo lộ trình và bước đi phù hợp để đến năm 2020 cơ bản hình thành mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, bảo đảm chất lượng tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế". Tái cơ cấu công nghiệp nằm trong khuôn khổ tái cơ cấu toàn bộ nền kinh tế và được thực hiện trong mối quan hệ tương tác với các nội dung khác của quá trình này.
Quá trình tái cơ cấu ngành công nghiệp phải bảo đảm yêu cầu phát huy cao nhất những lợi thế dài hạn của đất nước, phù hợp với yêu cầu phát triển khoa học công nghệ, hội nhập kinh tế quốc tế và có khả năng thích ứng với những thay đổi của môi trường trong nước và quốc tế.
Với điều kiện cụ thể của Việt Nam, khi nguồn lực tài chính, khoa học công nghệ còn nhiều hạn chế, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, trong những năm trước mắt, đồng thời với việc thúc đẩy phát triển mạnh công nghiệp chế biến sâu, vẫn cần phải tiếp tục phát triển công nghiệp gia công/lắp ráp. Tuy nhiên, cần phải có sự hoàn thiện, cải tiến để nâng cao hơn hiệu quả của công nghiệp gia công/lắp ráp. Chẳng hạn, trong thực hiện phương thức gia công, cần chuyển từ việc doanh nghiệp trong nước nhận toàn bộ nguyên, phụ liệu từ bên ngước ngoài và giao thành phẩm sang việc tự mua các loại nguyên, phụ liệu phù hợp với yêu cầu sản xuất sản phẩm và giao sản phẩm cho bên nước ngoài. Theo cách này, quyền chủ động trong điều hành sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp gia công được mở rộng và có khả năng kích thích phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước.
Việc chuyển các ngành công nghiệp từ trình độ gia công/lắp ráp sang trình độ chế biến sâu, thực hiện các khâu phức tạp có giá trị gia tăng cao phụ thuộc vào nhiều điều kiện, trong đó có hai điều kiện cơ bản là: 1/ Sự sẵn sàng chuyển giao của các đối tác nước ngoài; 2/ Khả năng đảm nhận của các chủ thể kinh tế trong nước.
Trong lịch sử phát triển công nghiệp, đã và đang xảy ra xu hướng chuyển dịch một số ngành hoặc một số khâu của quá trình sản xuất từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Điều này không những chỉ xảy ra với các ngành sử dụng nhiều lao động (dệt may, giầy dép…), mà cả với một số khâu của các ngành công nghệ cao (sản xuất linh kiện điện tử). Sự dịch chuyển này không phải chỉ được thực hiện ở khâu lắp ráp sản phẩm, mà còn cả ở các khâu sản xuất phụ liệu và linh kiện. Việc lựa chọn địa bàn đầu tư để thực hiện sự dịch chuyển ấy là điều được các hãng nước ngoài quan tâm hàng đầu. Địa bàn ấy không phải chỉ là có nguồn nhân lực dồi dào, mà là chất lượng nguồn nhân lực có khả năng thực hiện tốt những yêu cầu của sản xuất. Điểu này lại liên quan đến điều kiện thứ hai: khả năng của các chủ thể trong nước trong việc tiếp nhận sự "chuyển giao" của các nước phát triển. Những ưu đãi về giá thuê đất, miễn giảm thuế, nguồn nhân lực dồi dào chi phí thấp…chỉ được coi là điều kiện cần; điều kiện đủ để quyết định đầu tư lâu dài và ổn định là sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao và tác phong công nghiệp. Bởi vậy, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là những tiền đề thiết yếu để thúc đẩy chuyển từ gia công/lắp ráp sản phẩm sang thực hiện các khâu phức tạp, có giá trị gia tăng cao của công nghiệp chế biến.
Ở Việt Nam, việc thực hiện tốt ba khâu đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; phát triển cơ sở hạ tầng) là những điều kiện thiết yếu để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững nền kinh tế, trong đó có công nghiệp.
Thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ
Phát triển công nghiệp hỗ trợ được coi là trụ cột để thúc đẩy quá trình chuyển từ nền công nghiệp gia công/lắp ráp sang nền công nghiệp chế biến sâu với giá trị gia tăng cao. Phát triển công nghiệp hỗ trợ phải được coi là lĩnh vực giành được ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2020.
Để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả các ngành công nghiệp hỗ trợ cần chú ý một số vấn đề sau đây:
Thay đổi nhận thức lực lượng phát triển công nghiệp hỗ trợ
Các hoạt động hỗ trợ thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ bao gồm: hoạt động trợ giúp trực tiếp và gián tiếp của Nhà nước để phát triển công nghiệp hỗ trợ (bao gồm cả trợ giúp về tài chính, nhân lực và trợ giúp qua cơ chế, chính sách ưu đãi tạo động lực mạnh); hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực; hoạt động liên kết giữa các doanh nghiệp khu vực hạ nguồn với các doanh nghiệp khu vực thượng nguồn…Nhận thức này là cơ sở để xử lý các vấn đề một cách tổng thể và mới có thể huy động được lực lượng rộng rãi trong xã hội tham gia vào phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Đồng thời, cần có sự thay đổi tư duy về lực lượng tham gia phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ. Lâu nay, cả các nhà quản lý và các chuyên gia thường coi việc huy động nội lực với nòng cốt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước là lượng trụ cột trong việc phát triển công nghiệp hỗ trợ. Nhưng với nguồn lực của cả Nhà nước và các nhà đầu tư trong nước còn hạn chế, trong ngắn hạn và trung hạn, việc dựa vào lực lượng này không thể tạo sức bật mang tính đột phá trong phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là sản xuất các loại nguyên, phụ liệu, linh kiện có công nghệ phức tạp và yêu cầu cao về chất lượng. Bởi vậy, trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển công nghiệp hỗ trợ, bên cạnh việc mở rộng hợp tác quốc tế trong nghiên cứu và chế tạo, cần coi việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn xuyên quốc gia (TNC) có tiềm lực lớn về khoa học - công nghệ và tài chính, là lực lượng tạo nền tảng ban đầu cho sự phát triển đột phá trong phát triển các loại nguyên, phụ liệu và linh kiện này. Điều này được thực hiện thông qua việc yêu cầu các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực lắp ráp sản phẩm đồng thời đầu tư vào một số khâu trọng yếu của khu vực thượng nguồn. Trong quá trình phát triển, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ kết nối với các doanh nghiệp nội địa tạo thành các lực lượng nòng cốt trong hệ thống công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam.
Phát triển có trọng điểm các ngành công nghiệp hỗ trợ.
Trong khi các nguồn lực còn hạn chế, hệ quả tất yếu của tình trạng phát triển dàn trải các ngành công nghiệp hỗ trợ là không tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ và đạt hiệu quả mong đợi. Để khắc phục tình trạng này, cần điều chỉnh chiến lược phát triển công nghiệp hỗ trợ theo hướng phát triển có trọng điểm để đầu tư và chỉ đạo điều hành một cách tập trung. Để xác định đúng trọng điểm phát triển công nghiệp hỗ trợ, các yếu tố cơ bản cần được tính đến là: Nền tảng ban đầu về cơ sở vật chất, công nghệ, nhân lực đã được tạo lập; Khu vực hạ nguồn có nhu cầu lớn và có xu hướng tăng trưởng ổn định trong tương lai; Có khả năng bảo đảm sức cạnh tranh về chất lượng và giá cả để mở rộng thị trường quốc tế; Phù hợp với yêu cầu phát triển các quan hệ liên kết trong mạng sản xuất toàn cầu. Tư tưởng phát triển có trọng điểm cũng cần được quán triệt ngay trong từng ngành công nghiệp hỗ trợ: không phát triển "đồng bộ" tất cả các loại nguyên, phụ liệu, linh kiện cho khu vực hạn nguồn.
Theo đó, các trọng điểm cần được ưu tiên đầu tư phát triển là: ngành dệt – may; ngành da giày; ngành điện tử; ngành cơ khí…
Hoàn thiện và bổ sung các chính sách ưu đãi tạo động lực mạnh mẽ thu hút đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ
Do các dự án công nghiệp hỗ trợ thường đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn, thời hạn hoàn vốn dài và mức độ rủi ro cao, nên Nhà nước cần dành cho các dự án này mức độ ưu đãi cao, sự hỗ trợ thiết thực và có hiệu quả.
- Chính sách ưu đãi về tài chính
Vận dụng những ưu đãi cao nhất về thuế quy định tại Luật Đầu tư (2014) cho các dự án sản xuất công nghiệp hỗ trợ. Đó là: các quy định về ưu đãi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (được hưởng thuế suất 10% trong thời hạn 15 năm), về miễn giảm thuế (được miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo), miễn thuế nhập khẩu thiết bị vật tư phục vụ xây dựng và sản xuất; các quy định ưu đãi về miễn giảm tiền thuê đất.
Về tín dụng: ngoài việc ban hành chính sách ưu đãi tín dụng, cần hình thành Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ từ nguốn vốn được bảo đảm từ Ngân sách nhà nước và huy động sự đóng góp hoặc ủy thác của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Quỹ này đóng vai trò cung cấp tín dụng, hỗ trợ tài chính, bảo lãnh tín dụng cho các dự án nghiên cứu và sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ.
- Chính sách hỗ trợ nghiên cứu và ứng dụng công nghệ
Tạo môi trường và điều kiện gắn hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ với các ngành công nghiệp hỗ trợ để phát triển sản phẩm mới, "nội hóa" công nghệ và thiết bị nhập ngoại, bảo đảm sản xuất công nghiệp hỗ trợ thích ứng với nhu cầu của khu vực hạ nguồn. Hình thành Chương trình Khoa học công nghệ trọng điểm quốc gia nghiên cứu giải quyết các vấn đề kinh tế - kỹ thuật liên quan đến từng nhóm ngành công nghiệp hỗ trợ.
- Chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực
Sự hỗ trợ của Nhà nước có thể thực hiện theo những hướng sau đây: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phù hợp với quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ; Thúc đẩy thiết lập quan hệ liên kết giữa các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ với các cơ sở đào tạo, bảo đảm đào tạo theo đúng nhu cầu và địa chỉ sử dụng; Hỗ trợ kinh phí đào tạo, bỗi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp theo các dự án sản xuất công nghiệp hỗ trợ.
- Hình thành Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển công nghiệp hỗ trợ
Mục tiêu tổng quát của Chương trình mục tiêu quốc gia này là: phát huy lợi thế so sánh, huy động các nguồn lực trong và ngoài nước tạo sự phát triển đột phá của công nghiệp hỗ trợ trong giai đoạn 2015 – 2020, tạo nền tảng cho quá trình chuyển từ nền công nghiệp mang nặng tính chất gia công/lắp ráp thành nền công nghiệp chế biến với năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh cao, có vị trí xứng đáng trong mạng sản xuất công nghiệp toàn cầu.
KẾT LUẬN
Quá trình chuyển từ nền công nghiệp mang nặng tính chất gia công/lắp ráp với hiệu quả kinh tế thấp kém sang nền công nghiệp chế tạo có giá trị gia tăng cao là bước đi tất yếu của quá trình phát triển nền công nghiệp hiện đại ở Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, quá trình này là một trong những nội dung của tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh. Thực hiện nội dung phức tạp này, bên cạnh quyết tâm chính trị, còn đòi hỏi phải xác định những trọng điểm cần tập trung chỉ đạo bằng những biện pháp thích ứng và sự chỉ đạo sát sao, có hiệu quả của cơ quan quản lý nhà nước các cấp, sự hưởng ứng tích cực của cộng đồng các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020. NXB Chính trị quốc gia, 2011.
2. Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 22/2/2011 của Chính phủ về Phát triển công nghiệp hỗ trợ.
3. Quyết định số 339/2013/QĐ-TTg ngày 19/2/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 – 2020.
4. Tổng cục Thống kê: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2016. Gso.gov.vn.
5. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam: Báo cáo doanh nghiệp thường niên 2013.
6. Nguyễn Kế Tuấn: Phát triển đất nước thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. NXB Khoa học Xã hội, 2015.
7. Nguyễn Kế Tuấn: Một số vấn đề về thực hiện ba khâu đột phá chiến lược giai đoạn 2011 – 2020. Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 196 (2013).
5 Niên giám thống kê 2015.
6 Tổng cục Thống kê: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2016.
7 Năm 2012, tỷ trọng này của Philippines là 20,5%, của Indonesia là 23,9%, của Malaysia là 24,3% và của Thailand là 29,7% (Vũ Quang Việt: Giấc mơ công nghiệp hóa còn xa vời. Thời báo Kinh tế Sài Gòn online, 20/3/2014).
8 Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI),