ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN DU LỊCH THANH HÓA ĐẾN NĂM 2030, TẠO TIỀN ĐỀ ĐỂ DU LỊCH THỰC SỰ TRỞ THÀNH NGÀNH KINH TẾ MŨI NHỌN Ở GIAI ĐOẠN 2031 - 2045
PGS.TS. Phạm Trung Lương
Nguyên Phó Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Phát triển Du lich
1. Nhận thức về ngành kinh tế mũi nhọn
Cho đến nay, khái niệm "Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, mang nội dung văn hóa sâu sắc, mang tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao" đã dần được xã hội thừa nhận, cho dù khái niệm này còn chưa được chính thức "luật hóa"
Ở Việt Nam, ngành du lịch được hình thành và phát triển đã gần được60 năm, song hoạt động du lịch chỉ thực sự diễn ra sôi động với tư cách là một ngành kinh tế từ thập kỷ 90 gắn liền với chính sách mở cửa hội nhập của Đảng và Nhà nước. Vai trò và vị trí của du lịch đã sớm được xác định, theo đó "phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước"(Trích Chỉ thị 46/CT-TW Ban Bí Thư Trung ương Đảng khoá VII, 10/1994) và "phát triển du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn"(Trích Văn kiện Đại hội Đảng IX).
Như vậy có thể thấy ngay từ những năm 2000 của Thế kỷ XX, du lịch đã được xác định là ngành kinh tế quan trọng và được định hướng để trở thành ngành kinh tế mũi nhọn chứ không phải là ngành "dịch vụ ăn chơi" như quan niệm đã từng tồn tại trước đó ở Việt Nam.
Cho dù ở Việt Nam, nhiều ngành kinh tế đã từng hoặc đang được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn (Spearhead economic sector), song khái niệm cụ thểvề ngành kinh tế mũi nhọn kèm theo hệ thống tiêu chí rõ ràng để "công nhận" thì cho đến nay chưa có văn bản chính thức nào đưa ra. Cũng có ý kiến cho rằng ngành kinh tế mũi nhọn phải là ngành "tiên phong, đi đầu" có khả năng làm "đầu tàu" dẫn dắt nền kinh tế của đất nước, tuy nhiên câu hỏi đặt ra: như thế nào là "tiên phong"?, thế nào là "đầu tàu"? vẫn chưa có lời giảimột cách thuyết phục. Hơn thế nữa ngành "tiên phong", "đầu tàu" chỉ có thể là một ngành, chứ không thể là hai và càng không thể có nhiều được. Tuy nhiên thực tế cho thấy ở Việt Nam nhiều ngành kinh tế đã được xác định là ngành mũi nhọn và vì vậy khái niệm kinh tế Việt Nam là nền kinh tế "quả mít" với nhiều ngành được "phong" là ngành kinh tế mũi nhọn. Đây chính là hệ quả của tình trạng còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm của "ngành kinh tế mũi nhọn".
Thực tế này lý giải tại sao nhiệm vụ "Phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn" đã được Đảng và Nhà nước đặt ra ngay từ Đại hội Đảng lần thứ IX song cho đến nay vẫn chưa thể tổng kết đánh giá được.Gần đây nhiệm vụ này một lần nữa lại được đặt ra tại Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về "Phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn". Trong bối cảnh đó, nếu không có được khái niệm rõ ràng mang tính khoa học thì sẽ khó có thể xác định rõ mục tiêu cuối cùng (mang tính định lượng) và lộ trình để du lịch Việt Nam thực hiện thành công Nghị quyết 08-NQ/TW và chính thức được công nhận là ngành kinh tế mũi nhọn của Đất nước.
Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của việc phải có được khái niệm mang tính định lượng về ngành kinh tế mũi nhọn để vận dụng cho phát triển ngành du lịch, một số hội thảo đã được tổ chức ngay từ năm 2000 với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý. Cho dù còn chưa có sự thống nhất tuyệt đối, song đa số ý kiến cho rằng một ngành kinh tế sẽ được công nhận là ngành mũi nhọn nếu đạt được 03 tiêu chí cơ bản sau: Tỷ lệ đóng góp trực tiếp của du lịch vào GDP quốc gia (hay GRDP địa phương) đạt tỷ lệ từ 10,0% trở lên. Tỷ lệ việc làm trực tiếp trong ngànhphải đạt trên 8,0% tổng số lao động xã hội trong độ tuổi của quốc gia (hay địa phương). Sự phát triển của ngành phải tạo được sự "lan tỏa" (vai trò dẫn dắt) đối với sự phát triển những ngành có liên quanthông qua tỷ lệ đóng góp gia tăng(gián tiếp) của ngành vào GDP quốc gia (hay GRDP địa phương) cũng phải từ 10,0% trở lên và việc làm tạo ra phải đạt trên 15,0% tổng số lao động trong độ tuổi của xã hội.
Bên cạnh những tiêu chí mang tính định lượng trên, sự phát triển của ngành kinh tế mũi nhọn phải đóng góp được nỗ lực quảng bá hình ảnh và nâng cao vị thế của Đất nước trong khu vực và quốc tế. Phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trên quy mô quốc gia hay địa phương cũng không phải là ngoại lệ. Với du lịch thì việc thực hiện mục tiêu này sẽ thuận lợi hơn dựa vào tính chất của du lịch là "ngành kinh tế tổng hợp, mang tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao" vì thế tiêu chí: "tạo được sự lan tỏa" đối với sự phát triển của các ngành kinh tế khác có liên quan và tạo việc làm gián tiếp cho xã hội sẽ dễ thực hiện hơn so với nhiều ngành khác. Bên cạnh đó, phát triển du lịch còn luôn gắn liền với hoạt động xúc tiến quảng bá hình ảnh, vị thế của quốc gia hoặc địa phương nơi du lịch phát triển.
2. Lợi thế và thực trạng phát triển du lịch Thanh Hóa
2.1. Lợi thế phát triển du lịch
Theo tổ chức lãnh thổ du lịch Việt Nam tại QHTT phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22/01/2013, Thanh Hóa là địa phương thuộc vùng Bắc Trung Bộ có vị trí "cầu nối" với vùng Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc mà trung tâm vùng là Thủ đô Hà Nội. Đây là vị trí địa chính trị quan trọng đối với phát triển KT-XH, đặc biệt là du lịch của tỉnh Thanh Hóa.
Là địa phương không chỉ có diện tích lãnh thổ lớn thứ 5 ở Việt Nam, nơi sinh sống của 07 dân tộc, Thanh hóa còn là địa phương có bề dầy lịch sử phát triển, có bờ biển dài, địa hình đa dạng, tính đa dạng sinh học cao. Những đặc điểm về tự nhiên và lịch sử - văn hóa tạo cho Thanh Hóa có được tiềm năng du lịch rất đa dạng và phong phú, trong đó có những giá trị nổi bật toàn cầu.
Với bờ biển dài trên 100 km, Thanh Hóa có nhiều bãi biển đẹp mà tiêu biểu là Sầm Sơn, Quảng Vinh (huyện Quảng Xương), Hải Tiến (huyện Hoằng Hóa), Hải Hòa (huyện Tĩnh Gia),..Thanh Hóa có vùng núi đá vôi rộng lớn với nhiều danh thắng hang động karster gắn với các truyền thuyết, di tích lịch sử văn hóa như động Từ Thức (huyện Nga Sơn), động Long Quang trên núi Hàm Rồng (TP. Thanh Hóa), quần thể hang động Trường Lâm (huyện Tĩnh Gia), động Tiên Sơn (huyện Vĩnh Lộc),…Trong hệ thống các khu BTTN mà tiêu biểu là VQG Bến En chưa đựng nhiều giá trị cảnh quan đặc sắc, về các hệ sinh thái nhiệt đới điển hình, và tính đa dạng sinh học cao.
Với bề dày lịch sử hàng ngàn năm phát triển, Thanh Hóa là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi phát tích của bốn vị Vua là: Lê Đại Hành (980-1005), Hồ Quý Ly (1400-1407), Lê Thái Tổ (1418-1426) và Gia Long (1802-1820) và hai vị Chúa là Chúa Trịnh (1545-1570) vàChúa Nguyễn (1558-1613), là cái nôi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn - thánh địa tôn nghiêm và uy linh của Vương tôn Triều Hậu Lê … và là nơi lưu giữ được nhiều di sản văn hóa lịch của dân tộc.Theo số liệu thống kê năm 2016, trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa hiện có 804 di tích được xếp hạng, trong đó có 145 di tích cấp quốc gia với 01 Di sản Văn hóa thế giới (Thành nhà Hồ) và 04 di tích cấp quốc gia đặc biệt là Hang Con Moong (khảo cổ), Sầm Sơn (lịch sử và danh lam thắng cảnh), khu di tích Lam Kinh và Đền Bà Triệu (lịch sử và kiến trúc nghệ thuật)... và nhiều lễ hội gồm160 lễ hội truyền thống và 50 lễ hội tín ngưỡng - văn hóa đặc trưng riêng biệtcó ý nghĩa lớn về lịch sử, văn hóa và có tác dụng tích cực trong việc giáo dục truyền thống yêu nước và khôi phục phát triển những nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cổ truyền. Trên cơ sở phân tích đặc điểm về nguồn lực, vai trò vị trí phát triển du lịch, có thể thấy những lợi thế so sánh của Thanh Hóa trong phát triển du lịch bao gồm:
Thứ nhất, so với nhiều địa phương, phát triển du lịch Thanh Hóa có được sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ và các bộ, ngành TW, của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Thanh Hóa; trên cơ sở đó, tỉnh đã xây dựng chiến lược, các quy hoạch, kế hoạch cho từng giai đoạn làm căn cứ để phát triển du lịch một cách đồng bộ, hiệu quả theo hướng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và bền vững.
Thứ hai, Thanh Hóa là địa phương hội tụ nhiều tiềm năng phát triển du lịch mang tính đặc thù, đặc biệt về lịch sử văn hóa bên cạnh các giá trị tự nhiên đặc sắc và hấp dẫn như biển Sầm Sơn, VQG Bến En, …Với tiềm năng du lịch đặc sắc mang tính đặc thù về văn hóa và tự nhiên, Thanh Hóa có thế mạnh nổi trội trong phát triển du lịch văn hóa - lịch sử và du lịch biển. Đây là lợi thế tạo nên thương hiệu riêng có của điểm đến Thanh Hóa, góp phần quan trọng tạo nên sức cạnh tranh của điểm đến.
Thứ ba, đó là "Vị trí địa lý", theo đó Thanh Hóa là điểm đầu của vùng Bắc Trung Bộ gần với Thủ đô Hà Nội - trung tâm du lịch của cả nước ở khu vực phía Bắc. Lợi thế này của Thanh Hóa đã được phát huy có hiệu quả với việc nâng cấp QL1A, sân bay Thọ Xuân, qua đó "rút ngắn" đáng kể "khoảng cách thời gian"giữa Thanh Hóa với Hà Nội.
Thứ tư, đó là "Hình ảnh" của điểm đến du lịch Thanh Hóa đã được hình thành và khá đậm nét trên thị trường, đặc biệt là thị trường khách nội địa với địa danh Sầm Sơn với tư cách là một điểm đến du lịch biển khá nổi tiếng ở khu vực phía Bắc. Sau một thời gian hình ảnh này bị "nhạt" đi do sự ra đời của nhiều khu du lịch biển đẹp ở miền Trung cũng như bởi sự ảnh hưởng của những "hình ảnh xấu" về một khu du lịch có nhiều tiêu cực thì nay hình ảnh Sầm Sơn lại dần được phục hồi bởi những đổi thay tích cực. Với những lợi thế và tiềm năng du lịch đặc sắc, đa dạng và phong phú, Thanh Hóa đã được xác định là điểm đến du lịch biển hấp dẫn ở khu vực phía Bắc, đặc biệt vào mùa du lịch nội địa từ tháng 6 - 9 hàng năm.
2.2. Thực trạng phát triển du lịch và những vấn đề đặt ra
Nhận thức được những tiềm năng và lợi thế về du lịch, trong những năm qua, đặc biệt từ những năm 2000 trở lại đây,Thanh Hóa đã chú trọng phát triển du lịch, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đặc biệt là tạo việc làm, nâng cao thu nhập củacộng đồng và tạo được hình ảnh của Thanh Hóa như một điểm đến năng động, giàu bản sắc và thân thiện.
2.2.1.Những kết quả, thành công chủ yếu:
- Nhận thức về du lịch đã có những chuyển biến tích cực, theo đó Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVIII xác định phát triển du lịch là 1 trong 5 chương trình phá triển kinh tế - xã hội trọng tâm. Để hiện thực hóa nhận thức này,Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVIII đã có Quyết định số 209-QĐ/TU ngày 27/5/2016 ban hành Chương trình phát triển du lịch Thanh Hoá giai đoạn 2016 - 2020 (QĐ 209) với mục tiêu chung đưa du lịch Thanh Hóa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế của tỉnh và đến năm 2020 Thanh Hóa trở thành một trong những trọng điểm du lịch của cả nước. Như vậy có thể thấy trên cơ sở chuyển biến về nhận thức đối với vai trò của du lịch, Thanh Hóa là một trong những địa phương đi đầu trong cả nước đề ra mục tiêu phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phù hợp với tinh thần chỉ đạo của Đảng ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và được cụ thể hóa tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Trong thời gian qua nhiều nhiều hội thảo, hội nghị chuyên đề về du lịch để nâng cao nhận thức xã hội, trước hết là trong đội ngũ lãnh đạo, đảng viên từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở đã được tổ chức. Gần đây, ngày 19/6/2018, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa đã phối hợp với Báo Diễn đàn doanh nghiệp tổ chức Hội thảo "Du lịch Thanh Hoá: Đổi mới để phát triển bền vững".
Những chuyển biến nhận thức xã hội về du lịch là yếu tố quan trọng để đẩy mạnh phát triển du lịch ở Thanh Hóa thời gian qua.
- Hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch từng bước được nâng cao, đặc biệt trong việc đẩy mạnh công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển du lịch làm căn cứ pháp lý cho hoạt động quản lý, khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế về du lịch; đẩy mạnh phát triển du lịch theo những Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam và định hướng của chỉ đạo của Tỉnh ủy.
Cụ thể, để thực hiện Quyết định số 2161/QĐ-TTg ngày 11/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt "Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030" và Quyết định 209 của Ban chấp hành Tỉnh ủy,UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 45/KH-UBND ngày 25/4/2014 về phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020 và thực hiện Chương trình Hành động quốc gia về du lịch.
Tiếp đến UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn tại Quyết định số 1554/QĐ-UBND ngày 11/5/2017.
Để triển khai những định hướng trên, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa đã triển khai thực hiện đề án "Chiến lược phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030" với một trong những mục tiêu trọng tâm là phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Đề án này đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số số 492 ngày 9/2/2015.
- Trên cơ sở quy hoạch, đặc biệt là kết quả thực hiện Đề án "Phát triển sản phẩm du lịch mũi nhọn của tỉnh Thanh Hóa đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030" tại Quyết định số 1985/QĐ-UBND ngày 9/6/2017 của UBND tỉnh Thanh Hóa, hệ thống sản phẩm du lịch của Thanh Hóa đã dần được định hình và hoàn thiện theo hướng chú trọng phát triển các sản phẩm đặc thù (mũi nhọn) dựa trên lợi thế về tự nhiên và văn hóa - lịch sử và đa dạng hóa sản phẩm để đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường. Vào giai đoạn trước 2015, Thanh Hóa tập trung phát triển sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng và tắm biển ở khu vực Sầm Sơn, Hải Hòa, Hải Tiến... Bên cạnh sản phẩm chính này, một số sản phẩm tham quan các di tích lịch sử - văn hóa, hang động như động Từ Thức (huyện Nga Sơn), động Tiên Sơn (huyện Vĩnh Lộc),…;trải nghiệm cảnh quan, môi trường sinh thái ở các khu BTTN Pù Luông (huyện Quan Hóa và Bá Thước), Pù Hu (huyện Quan Hóa và huyện Mường Lát), Xuân Liên (huyện Thường Xuân) và đặc biệt là ở VQG Bến En (huyện Như Thanh) cũng phát triển chủ yếu để đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa từ đại trà đến trung cấp từ Hà Nội và các địa phương phía Bắc.
Trong những năm gần đây hệ thống sản phẩm du lịch Thanh Hóa đã có những bước phát triển đáng ghi nhận về chất, theo đó một số loại sản phẩm du lịch cao cấp đã và đang được đầu tư phát triển như du lịch nghỉ dưỡng cao cấp, du lịch golf ở quần thể nghỉ dưỡng và sân golf FLC, hay du lịch MICE, du lịch di sản,…cũng như sản phẩm du lịch bổ sung như du lịch tâm linh sinh thái (suối cá Cẩm Lương), du lịch làng nghề (cói Nga Sơn, đúc đồng Thiệu Trung - Thiệu Hóa,..) để đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường và quan trọng hơn là từng bước khắc phục tính thời vụ vốn là hạn chế chính của du lịch Thanh Hóa, qua đó nâng cao tính hiệu quả tăng trưởng du lịch, có đóng góp tích cực hơn cho phát triển kinh tế – xã hội.
Cùng với phát triển hệ thống sản phẩm du lịch, công tác xúc tiến quảng bá du lịch được chú trọng công tác quảng bá, xúc tiến du lịch cũng được Thanh Hóa đẩy mạnh và ngày càng hiệu quả với nhiều hình thức như: quảng bá hình ảnh điểm đến du lịch Thanh Hóa trên truyền hình, Youtube, Facebook, thực hiện các chuyên mục quảng bá về ẩm thực,... đẩy mạnh hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch tại Lào, Thái Lan; tăng cường liên kết trong hoạt động XTQB du lịch với các tỉnh Nghệ An, Ninh Bình, Khánh Hòa, Quảng Nam, Đà Nẵng và đặc biệt là với Hà Nội; tham gia sự kiện du lịch như: Hội chợ du lịch quốc tế thường niên VITM tại Hà Nội, Hội chợ Du lịch quốc tế ITE tại TP.HCM, tham gia xúc tiến đầu tư thương mại du lịch tại Mỹ... góp phần mang hình ảnh du lịch Thanh Hóa đến gần hơn với khách du lịch trong nước và quốc tế, tạo điều kiện kết nối tour, tuyến, thu hút khách du lịch đến với Thanh Hóa.
- Với những nỗ lực phát triển sản phẩm du lịch và hoạt động XTQB du lịch, lượng khách du lịch đến với Thanh Hóa đã không ngừng tăng lên, qua đógóp phần tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.Nếu như năm 2015, lượng khách du lịch đến Thanh Hóa đạt 5.530.000 lượt, trong đó có 127.000 lượt khách quốc tế; tổng thu từ du lịch đạt trên 5.180 tỷ đồng thì năm 2019, Thanh Hóa đã đón 9.655.000lượt khách, trong đó có trên 300.000 lượt khách quốc tế; thu nhập du lịch đạt hơn 14.526 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng trung bình về khách du lịch giai đoạn 2015-2019 đạt trên 16,8%/năm, tăng trưởng trung bình về thu nhập du lịch đạt 45,1%/năm. Năm 2018, tỷ trọng đóng góp thu nhập trực tiếp từ du lịch vào GRDP của Thanh Hóa đạt 5,0% và năm 2019 chỉ đạt 3,9%. Nếu kể cả đóng góp gián tiếp thì tỷ trọng tương ứng sẽ là 7,3% và 5,5%.
Như vậy có thể thấy ngay cả năm cao nhất là 2018 phát triển du lịch Thanh Hóa vẫn chưa đạt được tiêu chí về tỷ lệ đóng góp vào GRDP của ngành kinh tế mũi nhọn, cho dù đã có rất nhiều nỗ lực trong phát triển.
- Bên cạnh sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước, Thanh Hóa chú trọng cải thiện môi trường đầu tư để thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt các nhà đầu tư chiến lược như FLC Group, VinGroup, SunGroup, Mường Thanh Group,.... Trong thời gần đây nhiều dự án đã được phê duyệt và thực hiện tại các địa bàn trọng điểm du lịch như: dự án Khu du lịch sinh thái biển Hải Hòa, dự án khu nghỉ mát biển Hải Tiến, Khu nghỉ mát Nam Sầm Sơn, khu du lịch sinh thái - văn hóa Vườn quốc gia Bến En, Khu du lịch sinh thái Pù Luông... Riêng năm 2015 - 2017, Thanh Hóa đã thu hút được 18 dự án hạ tầng du lịch, 61 dự án kinh doanh khu, điểm du lịch được cấp phép, với tổng vốn đăng ký lên đến 62.480 tỷ đồngBên cạnh đó, một số dự án đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực nhà hàng; vận chuyển du lịch, làng nghề truyền thống, hàng lưu niệm, cũng đang được hoàn thành góp phần không nhỏ trong việc nâng cao năng lực và chất lượng phục vụ du khách. Cùng với đầu tư phát triển các dự án, số lượng các cơ sở lưu trú cũng tăng nhanh, từ 560 cơ sở với 14.050 buồng vào năm 2011 đã tăng lên 650 cơ sở lưu trú với quy mô 20.500 buồng vào năm 2015. Năm 2019, số cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh đà đạt 760 với số lượng buồng gần 40.000. Tuy nhiên số lượng buồng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, đặc biệt vào mùa cao điểm, tình trạng "cháy phòng" vẫn diễn ra ở các trọng điểm du lịch, đặc biệt tại Sầm Sơn.
- Phát triển du lịch Thanh Hóa thời gian qua đã tạo nhiều việc làm cho xã hội, góp phần cải thiện cuộc sống của cộng đồng.Đến năm 2016, đã có gần 20.000 lao động (trực tiếp và gián tiếp) trong lĩnh vực du lịch. Đa phần nhân lực trực tiếp có trình độ kiến thức từ cao đẳng, đại học trở lên, nhưng tỷ lệ có chuyên môn về du lịch còn hạn chế (30,75%) và chưa đạt được một số tiêu chí theo chuẩn quốc tế về nghề du lịch. Cụ thể tiêu chí về thái độ phẩm chất chỉ đạt 4-5/10 điểm; về kiến thức hoạch định chiến lược, quản trị nhân sự, marketing chỉ đạt 4-5/10 điểm; về kỹ năng lập kế hoạch, giao tiếp, đào tạo, ngoại ngữ, ra quyết định, tạo động lực lao động, thuyết phục khách hàng cũng chỉ đạt từ 2-5/10 điểm.
Như vậy có thể thấy lao động trong ngành du lịch Thanh Hóa còn rất hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Chỉ riêng về số lượng năm 2016 đã không đạt chỉ tiêu đạt ra tại Quyết định số 2218/QĐ-UBND ngày 16/7/2009 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoávề việc điều chỉnh "Quy hoạch phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020", theo đó năm 2015 cần tới trên 109.000 lao động và đến năm 2020 giải quyết việc làm cho gần 261.000 lao động (kể cả lao động trực tiếp và gián tiếp).
Kết quả điều tra dân số 2019 cho thấy hiện dân số Thanh Hóa là 3,64 triệu người, số lao động trong độ tuổi là 2,0 triệu. Như vậy ngay cả với số lao động dự báo cần thiết cho phát triển du lịch Thanh Hóa vào năm 2020 thì tỷ lệ lao động trực tiếp trong ngành du lịch năm 2020 mới chỉ đạt 5,2%, chưa đạt tiêu chí của ngành kinh tế mũi nhọn.
Sau 3 năm thực hiện Quyết định số 209-QĐ/TU ngày 27/5/2016 về "Chương trình phát triển du lịch Thanh Hoá giai đoạn 2016 - 2020" vàQuyết định số 1554/QĐ-UBND ngày 11/5/2017 của UBND tỉnh về "Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn", du lịch Thanh Hóa đã có bước chuyển mình mạnh mẽ, thực sự là khâu "đột phá" trong phát triển kinh tế của tỉnh và đã đạt được những kết quả tích cực đáng ghi nhận.
2.2.2.Những tồn tại, hạn chế :
Bên cạnh những kết quả quan trọng đạt được như đã đề cập, phát triển du lịch Thanh Hóa thời gian qua còn có những bất cập, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển du lịch thực sự trở thành ngành mũi nhọn theo hướng bền vững. Cụ thể:
- Nhận thức xã hội về vai trò của du lịch nói chung và phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn theo hướng bền vững nói riêng còn hạn chế. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu đồng thuận giữa các Sở ngành, giữa cấp trên và cấp dưới cũng như cộng đồng trong thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước, của Tỉnh ủy và UBND tỉnh Thanh Hóa về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn ở địa phương.
- Năng lực quản lý nhà nước về du lịch còn hạn chế thể hiện ở một số mặt: (i) Khả năng dự báo và thích ứng với những thay đổi về nhu cầu và xu hướng thị trường của du lịch Thanh Hóa chưa cao, chưa có giải pháp thu hút được khách du lịch cao cấp, có khả năng lưu trú dài ngày và mức chi tiêu cao, tỷ lệ khách quay lại còn thấp, đặc biệt trong bối cảnh đường QL1A đoạn Hà Nội –Thanh Hóa đã được nâng cấp, vì vậy hiệu quả chung về phát triển du lịch còn hạn chế; năng lực định hướng, phát triển và xây dựng sản phẩm còn hạn chế; công tác quản lý, giám sát triển khai quy hoạch còn bất cập; chất lượng sản phẩm, dịch vụ cơ bản chưa cao và không đồng đều. (ii) Chưa chú trọng tập trung nguồn lực để khai thác những lợi thế về du lịch của Thanh Hóa, đề xuất các chính sách phát triển du lịch đặc thù phù hợp với pháp luật hiện hành và đặc điểm của địa phương để qua đó tạo sự phát triển du lịch mang tính "bứt phá" do xuất phát điểm của du lịch Thanh Hóa còn thấp. (iii) Việc phối hợp liên ngành trong việc đảm bảo phát triển du lịch bền vững còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong phát triển công nghiệp đã có những tác động tiêu cực và lâu dài đến phát triển du lịch. Bên cạnh đó việc liên kết với các địa phương trong vùng Bắc Trung Bộ và một số tỉnh phụ cận thuộc vùng Đồng Bằng sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc, đặc biệt với Hà Nội để phát triển các sản phẩm du lịch hấp dẫn mang tính liên vùng còn mang tính hình thức, chưa đạt được kết quả như kỳ vọng.
- Công tác đầu tư cho phát triển du lịch, đặc biệt là từ nguồn ngân sách Nhà nước chưa đáp ứng nhu cầu, thiếu cân đối giữa đầu tư cho khu vực ven biển với các địa bàn khác trong tỉnh, đặc biệt là đối với khu vực phía Tây. Giao thông tiếp cận một số khu, điểm du lịch còn nhiều khó khăn, nhất là ở khu vực miền núi; giao thông đường sông, đường biển phục vụ du lịch chưa phát triển. Công tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch chưa thực sự hiệu quả và chuyên nghiệp, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp trong hoạt động xúc tiến. Đội ngũ lao động trong ngành du lịch còn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển du lịch Thanh Hóa cả về số lượng và chất lượng, tính chuyên nghiệp còn hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm du lịch và dịch vụ.
- Môi trường du lịch còn nhiều bất cập, vấn đề xử lý rác thải tại các khu du lịch chưa thực sự được quan tâm giải quyết có hiệu quả, đặc biệt là các khu du lịch biển; nhiều khu di tích, danh thắng chưa có nhà vệ sinh đạt chuẩn phục vụ khách du lịch; môi trường xã hội chưa đảm bảo tính bền vững. Tính mùa vụ trong phát triển du lịch còn cao, do đó, luôn chịu tác động lớn từ thiên tai và nhạy cảm với những tác động từ môi trường.
Nguyên nhân của những hạn chế
- Nguyên nhân khách quan: (i) Điểm xuất phát chungvề du lịch của Thanh Hóa còn thấp cả về nhận thức xã hội về du lịch; hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch;trình độ quản lý và nghiệp vụ của đội ngũ lao động du lịch. (ii) Nhiều địa phương trong tỉnh còn nghèo, cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch còn thiếu, chất lượng thấp, chưa tạo được những sản phẩm du lịch đặc thù có chất lượng cao. Nội lực của các địa phương còn khó khăn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu về vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch. (iii) Còn thiếu các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các nhà đầu tư thương hiệu quốc tế có đủ năng lực đầu tư xây dựng các dự án du lịch lớn, tạo chuyển biến lớn cho phát triển du lịch không chỉ ở quy mô địa phương mà còn ở quy mô vùng. Phần lớn các doanh nghiệp du lịch trong vùng có quy mô nhỏ và vừa, năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh còn hạn chế, nguồn vốn chủ yếu tập trung vào lĩnh vực nhanh thu hồi vốn hoặc khai thác những tiềm năng, lợi thế du lịch sẵn có. Doanh nghiệp lữ hành các địa phương trong vùng ít có khả năng tự khai thác các nguồn khách, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. (iv) Hệ thống cơ chế chính sách chậm được đổi mới và hoàn thiện, đặc biệt là hệ thống văn bản dưới luật quy định chi tiết thi hành Luật Du lịch; cơ chế chính sách đặc thù khuyến khích phát triển du lịch ở vùng Bắc Trung Bộ nói chung và Thanh Hóa nói riêng còn rất hạn chế; vai trò của Ban Chỉ đạo nhà nước về du lịch ở trung ương vàđịa phương trong thực hiện liên kết vùng, phối hợp giữa các cấp, các ngành ởtừng địa phương trong vùng Bắc Trung Bộ nhằm thực hiện các định hướng chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển du lịch chưa được phát huy đầy đủ.
Bên cạnh đó, sự thiếu đồng bộ về cơ chế chính sách, khó khăn trong việc kết nối giao thông, đặc biệt giữa TP. Thanh Hóa với các địa bàn trọng điểm du lịch trong tỉnh cũng là một trong những nguyên nhân khiến việc liên kết vùng gặp khó khăn.
+ Cho dù tài nguyên du lịch là yếu tố cốt lõi để xây dựng sản phẩm du lịch, bao gồm cả các sản phẩm du lịch đặc thù mang tính vùng, tạo nên nguồn thu du lịch đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên trong thực tế tài nguyên du lịch không phải là đối tượng quản lý của ngành du lịch theo quy định. Các dạng tài nguyên du lịch chính hiện nay như cảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sử văn hoá, các lễ hội, các làng nghề, các hệ sinh thái và đa dạng sinh học, v.v. thuộc quyền quản lý của các ngành có liên quan như ngành văn hoá, ngành lâm nghiệp, ngành công nghiệp, … và các địa phương theo quy định của hệ thống pháp luật. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng tài nguyên du lịch bị xâm hại, xuống cấp và suy thoái hoặc sử dụng cho mục đích của ngành được quản lý.
+ Hạ tầng xã hội, đặc biệt là hạ tầng giao thông của vùng Bắc Trung Bộ trong thời gian qua đã được nâng cấp và cải thiện đáng kể, đặc biệt đường QL1A từ Hà Nội đến các địa phương trong vùng đã đi vào sử dụng, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Cho đến nay toàn vùng có 02 sân bay, tuy nhiên việc kết nối đến các trung tâm du lịch còn khó khăn; hệ thống giao thông kết nối TP. Thanh Hóa với các trung tâm du lịch của vùng và đến đến các điểm du lịch trong tỉnh chưa đồng bộ và thuận tiện.
+ Du lịch là ngành kinh tế rất nhạy cảm rất dễ bị "tổn thương" dưới ảnh hưởng của các yếu tố khách quan như dịch bệnh, biến đổi khí hậu, khủng hoảng kinh tế, bất ổn về chính trị, tình trạng an ninh khủng bố... không chỉ ở tầm quốc gia mà còn ở tầm khu vực và quốc tế. Sự sụt giảm về lượng khách quốc tế đến Việt Nam vào năm 2003 do ảnh hưởng của dịch SART, ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế - tiền tệ khu vực năm 2007-2008,...và lúc này là dịch viêm đường hô hấp cấp COVID 19 là những ví du điển hình về vấn đề này. Hiện nay, hoạt động phát triển du lịch Việt Nam nói chung và vùng Bắc Trung Bộ, và Thanh Hóa nói riêng cũng đang chịu những tác động không nhỏ từ bất ổn về an ninh khu vực, đặc biệt là biến đổi khí hậu.
- Nguyên nhân chủ quan: (i) Hạn chế về nhận thức xã hội đối với vai trò của du lịch với tư cách là ngành kinh tế. Mặc dù nhận thức xã hội về du lịch ở Thanh Hóa đã có những thay đổi tích cực trong thời gian qua, tuy nhiên nhìn chung sự thay đổi này mới chỉ trong một bộ phận cán bộ công chức vì vậy chưa tạo được sự đồng thuận chung của xã hội đối với vai trò và vị trí quan trọng của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội. Đây được xem là nguyên nhân chính dẫn đến các hạn chế trong phát triển du lịch ở Thanh Hóa và các địa phương cũng như trong liên kết phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ từ quản lý nhà nước đến kinh doanh du lịch và sự tham gia tích cực của người dân vào hoạt động du lịch. (ii) Hạn chế về "Tầm nhìn" của các cấp quản lý địa phương đối với vai trò của phát triển du lịch. Khác với nhiều ngành kinh tế khác có thể đem lại lợi ích vật chất ngay như khai thác khoáng sản, dịch vụ cảng, dịch vụ chuyển tải dầu, v.v. du lịch là ngành kinh tế tổng hợp và chỉ có thể đem lại lợi ích lớn về kinh tế và xã hội sau một thời gian khi có sự đầu tư và phát triển khá đồng bộ về hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ quản lý và kỹ năng nghề của đội ngũ lao động ở điểm đến. Chính vì vậy ở Thanh Hóa và nhiều địa phương trong tỉnh, du lịch vẫn chưa thực sự là "ưu tiên" trong các phương án quy hoạch/kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong bối cảnh tư duy "nhiệm kỳ" và lợi ích nhóm vẫn còn khá phổ biến như hiện nay. (iii) Tư tưởng cục bộ địa phương và "bệnh" thành tích vốn đã "ăn sâu" trong đội ngũ cán bộ quản lý là một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động liên kết vùng và tình trạng hạn chế trong phối hợp liên ngành vì mục tiêu phát triển du lịch ở cấp vùng cũng như ở từng địa phương trong vùng Bắc Trung Bộ. (iv) Cho đến nay ở Việt Nam vẫn chưa có thể chế, tổ chức quản lý điều phối du lịch cấp vùng trong điều kiện năng lực quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương còn hạn chế, chưa tương xứng với vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, ảnh hưởng đến hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch ở các địa phương trong vùng, trong đó có Thanh Hóa. (v) Nguồn lực huy động cho các công tác phát triển du lịch còn thiếu và yếu. Nguồn hỗ trợ từ ngân sách của Nhà nước đầu tư nâng cấp hạ tầng du lịch, xúc tiến quảng bá, đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch và bảo tồn các giá trị tự nhiên, văn hoá chưa được sử dụng có hiệu quả, đầu tư thiếu tập trung.Việc thực hiện xã hội hóa trong phát triển du lịch còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. (vi) Quản lý khai thác tài nguyên chồng chéo cùng với tốc độ phát triển nhanh của các đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp vùng ven biển, bên cạnh đó, sự quá tải lượng khách du lịch trong mùa cao điểm ở một số điểm đến, điển hình như Sầm Sơn làm ảnh hưởng đến môi trường du lịch, tăng áp lực lên hạ tầng.
3. Bối cảnh phát triển mới đối với du lịch Thanh Hóa
2.2.1.1. Bối cảnh phát triển du lịch
a) Bối cảnh quốc tế
Nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn chuyển đổi, cân bằng trong ngắn hạn nhưng có thể khó khăn trong trung hạn. Theo Ngân hàng thế giới (IMF, 2017), kinh tế thế giới đang tăng trưởng mạnh trong ngắn hạn, có thể đạt 3,6% năm 2017 và 3,7% năm 2018. Tuy nhiên, quá trình phục hồi còn có nhiều hạn chế: mặc dù các chỉ số chung tích cực nhưng ở nhiều nước tốc độ phát triển thấp, lạm phát dưới mục tiêu đặt ra ở hầu hết các nước phát triển. Xu hướng xuất khẩu dầu mỏ giảm dẫn đến nguồn thu ngoại tệ của nhiều nền kinh tế bị ảnh hưởng vẫn tiếp tục.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CM 4.0) diễn ra mạnh mẽ đã làm thay đổi cơ bản về phương thức sản xuất của con người, sản xuất được điều khiển và hỗ trợ quyết định từ không gian số. CM 4.0 trong du lịch đã làm cho hoạt động du lịch trở nên thông minh hơn, làm thay đổi các phương thức hoạt động truyền thống đã trở nên trì trệ và làm cho tương tác giữa thị trường khách du lịch (cầu du lịch) với các điểm đến du lịch (cung du lịch) trở nên sống động và gần hơn để tạo nên hiệu quả cao hơn trong kinh doanh du lịch.
Tác động của CM 4.0 đến phát triển du lịch vừa tạo ra cơ hội, đồng thơi cũng tạo ra thách thức không nhỏ đối với phát triển du lịch. Điều này đặt ra yêu cầu phải cơ cấu lại ngành du lịch để thích hợp với những tác động này. Phát triển du lịch Thanh Hóa trong giai đoạn tới cũng không phải là ngoại lệ để đảm bảo du lịch Thanh Hóa tận dụng được những cơ hội, đồng thời hạn chế được những tác động mang tính thách thức đối với du lịch của CM 4.0. Tác động của BĐKH diễn ra ngày một phức tạp với những biến đổi bất thường, không theo quy luật của các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày một gia tăng trên phạm vi toàn cầu trong đó có Việt Nam. BĐKH trực tiếp ảnh hưởng đến tài nguyên du lịch, đặc biệt là các giá trị tự nhiên ở vùng ven biển và vùng núi cao, qua đó ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững.
Là một địa phương ở vùng ven biển, địa hình chia cắt, phát triển du lịch ở Thanh Hóa không phải là ngoại lệ. Hiện tượng xói lở đường bờ biển, lũ quét, lũ ống ở vùng núi phía Tây của tỉnh, ảnh hưởng ngày càng mạnh của các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão lũ, sự thay đổi quy luật mùa, .v.v đã tác động không nhỏ đến hoạt động phát triển du lịch ở vùng Bắc Trung Bộ trong đó cóThanh Hóa. Điều này đòi hỏi cần có những thay đổi cơ cấu du lịch phù hợp để thích ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu đối mục tiêu phát triển du lịch bền vững của Thanh Hóa trong giai đoạn phát triển tới.
Tình hình an ninh thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp. Các điểm đến cạnh tranh với Việt Nam như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippine đều gặp phải những vấn đề bất ổn về chính trị và khủng bố cục bộ. Một số điểm đến lớn trên thế giới như Thổ Nhĩ Kỳ và Ai Cập gặp các vấn đề an ninh nghiêm trọng. Tình hình an ninh ở Mỹ và châu Âu cũng có nhiều bất ổn. Ngoài ra, thiên tai, dịch bệnh diễn ra phức tạp ở nhiều nơi, đặc biệt dịch COVID 19 với nhiều diễn biến khó lường sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động du lịch trên phạm vi toàn cầu, ảnh hưởng đến các dòng khách trong giai đoạn tới. Đây sẽ là yếu tố tác động đến phát triển du lịch Việt Nam nói chung vàThanh Hóa nói riêngtrong quá trình phát triển để trở thành"một trong những trọng điểm phát triển du lịch của cả nước" theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVIII.
b) Bối cảnh trong nước
Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn là định hướng quan trọng để phát triển đất nước. Ngoài ý nghĩa khẳng định vai trò của ngành du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nói chung và của các địa phương có vị thế và tiềm năng du lịch như Thanh Hóa, thì Nghị quyết 08 khẳng định chính sách ưu tiên của Nhà nước đối với phát triển du lịch trong giai đoạn phát triển tới. Điều đó cũng đồng nghĩa với cơ hội để du lịch cũng như yêu cầu phải cơ cấu lại ngành du lịch để đảm bảo việc thực hiện quan điểm này của, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược phát triển KT-XH của địa phương Thanh Hóa và của đất nước cũng như Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Tình hình kinh tế - xã hội thời gian qua mặc dù có nhiều khó khăn song đạt được những kết quả quan trọng. Năm 2019, GPD cả nước tiếp tục tăng trưởng và đạt mức 7,2%vượt mục tiêu của Quốc hội đề ra từ 6,6-6,8%, thuộc nhóm các quốc gia có mức tăng trưởng cao trên thế giới trong bối cảnh tình hình kinh tế toàn cầu tiếp tục tăng trưởng chậm lại. Trong mức tăng chung của nền kinh tế, khu vực dịch vụ tăng 7,3%, đóng góp tới 45%.
Trong bức tranh chung, ngành du lịch là điểm sáng, chỉ riêng dịch vụ lưu trú và ăn uống đã đóng góp 0,25 điểm phần trăm GDP. Tổng thu từ khách du lịch năm 2019 đạt hơn 720 nghìn tỷ đồng, đóng góp trực tiếp gần 510 nghìn tỷ đồng, chiếm 7,26% GDP, so với mức đóng góp 6,85% GDP năm 2018.
Tình hình kinh tế - chính trị đất nước tiếp tục ổn định, vị thế đất nước ngày càng được nâng cao. Kết cấu hạ tầng ngày càng phát triển theo hướng đồng bộ. Chính phủ có nhiều nỗ lực nâng cao năng lực tiếp cận CM 40.Tầng lớp trung lưu ngày càng đông, dự báo khoảng 33 triệu lượt người vào năm 2020.
2.2.1.2. Các xu hướng phát triển du lịch
a) Du lịch Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục tăng trưởng mạnh cùng sự thay đổi về nhu cầu và chi tiêu, Năm 2018, khách du lịch quốc tế trên phạm vi toàn cầu tăng 3,9%, đạt 1,235 tỷ lượt, tăng thêm 46 triệu lượt so với năm 2017, là năm tăng trưởng thứ 9 liên tục sau khủng khoảng kinh tế, tài chính năm 2009, chuỗi năm tăng trưởng dài nhất từ những năm 1960 (Tổ chức Du lịch thế giới, 2019). Châu Á và Thái Bình Dương là khu vực tăng trưởng cao nhất (8%), do nhu cầu đi lại nội vùng và từ các vùng khác đều tăng cao. (Tổ chức Du lịch thế giới, 2019). Đặc biệt, năm 2018, Trung Quốc tiếp tục củng cố vị trí thị trường nguồn khách du lịch quốc tế lớn nhất thế giới, tăng 6,2% so với năm 2017, đạt 135 triệu lượt; chi tiêu cho du lịch quốc tế tăng 12%, đạt 261 tỷ USD.
Theo dự báo về tình hình du lịch thế giới đến năm 2030, đến năm 2020 dự báo sẽ đạt gần 1,4 tỷ lượt, năm 2023 khoảng 1,5 tỷ lượt, năm 2030 khoảng 1,8 tỷ lượt (Tổ chức Du lịch thế giới, 2011). Năm 2017, du lịch quốc tế trên phạm vi toàn cầu tăng 3-4%, trong đó châu Á và Thái Bình Dương tăng 5-6%, châu Âu tăng 2-3%, châu Mỹ tăng 4-5% và Trung Đông với đặc điểm có những dao động lớn do bối cảnh khu vực tăng 2-5%.
Về các điểm đến khu vực, đến năm 2030, Đông Bắc Á sẽ thu hút nhiều khách du lịch quốc tế nhất với 293 triệu lượt, vượt qua khu vực Nam Âu/Địa Trung Hải (264 triệu lượt) và Tây Âu (222 triệu lượt). Đông Nam Á sẽ trở thành khu vực thu hút khách du lịch quốc tế lớn thứ 4 thế giới với 187 triệu lượt.
Về thị trường nguồn khách du lịch quốc tế, đến năm 2030, nguồn khách xuất phát từ châu Âu sẽ đạt 832 triệu lượt, tiếp theo là châu Á và Thái Bình Dương (541 triệu lượt), châu Mỹ (265 triệu lượt), châu Phi (90 triệu lượt) và Trung Đông (81 triệu lượt). Đến năm 2030, đa số lượng khách du lịch quốc tế xuất phát từ nội vùng với 1,4 tỷ (78 %) so với 0,4 tỷ (22 %) từ các vùng khác.
Về mục đích du lịch, đến năm 2030, khách du lịch đi với mục đích thăm viếng, sức khỏe và tôn giáo sẽ chiếm 31% tổng lượng khách du lịch quốc tế; với mục đích tham quan, nghỉ dưỡng, vui chơi, giải trí chiếm 54%; và với mục đích công việc và nghề nghiệp chiếm 15%.
Đáng lưu ý, nhu cầu trải nghiệm của khách du lịch hướng tới những giá trị mới được thiết lập trên cơ sở giá trị văn hoá truyền thống (tính độc đáo, nguyên bản), giá trị tự nhiên (tính nguyên sơ, hoang dã), giá trị sáng tạo và công nghệ cao (tính hiện đại, tiện nghi). Do xu hướng già hóa dân số và yêu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống, du lịch chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ngày càng phổ biến và trở thành một trong những phân khúc thị trường phát triển mạnh.
Về phương tiện vận chuyển khách, sự phát triển của hàng không giá rẻ tác động mạnh đến ngành du lịch, tạo điều kiện cho nhiều đối tượng có thể đi du lịch bằng đường hàng không.Dự báo đến năm 2030, đi lại bằng đường hàng không vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất, 52% so với 48% các phương tiện mặt đất.
b) Phát triển bền vững là xu thế tất yếu và là yêu cầu phát triển du lịch
Do tác động của biến đổi khí hậu và các vấn đề kinh tế, xã hội toàn cầu, khái niệm du lịch xanh được hình thành với định hướng tạo ra nhiều việc làm bền vững, đóng góp vào việc bảo tồn, phát triển văn hóa địa phương và môi trường tự nhiên, góp phần hỗ trợ kinh tế địa phương, giảm đói nghèo. Du lịch đại chúng truyền thống đã phát triển đến giai đoạn ổn định, trong khi du lịch sinh thái, tự nhiên, di sản, văn hóa và khám phá "mềm" được dự báo sẽ phát triển mạnh trong 02 thập kỷ tới. Hiện nay, các quốc gia trên thế giới coi du lịch là một trong những phương cách nhằm hiện thực hóa 17 mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp quốc. Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (2017), mặc dù thế giới ngày càng ý thức về yêu cầu phát triển bền vững và đạt được một số tiến bộ thực tế, nhiều khía cạnh của môi trường tự nhiên tiếp tục xuống cấp. Xu hướng môi trường tự nhiên của một điểm đến càng trong lành, khách du lịch càng có xu hướng đến nhiều hơn và sẵn sàng trả chi phí cao hơn. Khi môi trường tự nhiên xuống cấp, các điểm đến sẽ mất dần năng thu hút khách du lịch và mất nguồn thu.
c) Nhu cầu du lịch nghỉ dưỡng chất lượng cao và trải nghiệm sản phẩm du lịch đặc thù, đẳng cấp quốc tế ngày một tăng
Du lịch Việt Nam về cơ bản đã qua giai đoạn phát triển chiều rộng, theo đó khách du lịch đến Việt Nam chủ yếu để tham gia những sản phẩm cơ bản, đơn giản, có giá trị gia tăng thấp nên tỷ lệ quay trở lại không cao. Đến nay, du lịch Việt Nam đang vào giai đoạn phát triển theo chiều sâu với những đặc điểm cơ bản về khách du lịch và sản phẩm du lịch như sau:
Một là, khách du lịch quốc tế có mức chi tiêu cao, có nhiều kinh nghiệm đi du lịch quốc tế ngày càng quan tâm đến Việt Nam như một điểm đến nghỉ dưỡng, kết hợp với trải nghiệm văn hóa, lịch sử đặc sắc.
Hai là, sản phẩm du lịch có xu hướng thay đổi theo hướng tập trung vào các sản phẩm cao cấp, có giá trị gia tăng cao, nhất là các sản phẩm du lịch chuyên đề như nghỉ dưỡng biển, trải nghiệm văn hóa, đánh golf, MICE.
Ba là, bên cạnh các sản phẩm nghỉ dưỡng cao cấp, nhu cầu đối với các sản phẩm đặc sắc, nguyên bản ngày càng cao, từ đó dẫn đến sự phát triển của các loại hình du lịch đặc thù như du lịch di sản, du lịch trải nghiệm, nghiên cứu các giá trị văn hóa, du lịch cộng đồng, du lịch ẩm thực, du lịch kết hợp hoạt động thiện nguyện. Đây cũng là những loại hình du lịch vốn là lợi thế của Thanh Hóa.
d) Vai trò ngày càng lớn của thị trường nội địa đối với phát triển du lịch Việt Nam
Theo (PATA, 2013), du lịch nội địa đóng góp lớn gấp hơn 10 lần so với du lịch quốc tế, về cả số lượng và chi tiêu.Tuy nhiên, rất ít quốc gia có dữ liệu đáng tin cậy về du lịch nội địa. Ví dụ, năm 2012, khách du lịch Trung Quốc đi nước ngoài đạt 83 triệu lượt, trong khi có 3 triệu lượt khách du lịch nội địa Trung Quốc, tỷ lệ 1/36; đối với Ấn Độ, năm 2012 có 14 triệu lượt khách đi du lịch quốc tế trong khi có 851 triệu lượt khách du lịch nội địa. Chi tiêu của khách du lịch quốc tế (xuất khẩu từ khách du lịch) trong khu vực APEC đạt 490 tỷ USD năm 2012, chỉ chiếm khoảng 20% trong tổng đóng góp GDP của ngành du lịch đối với nền kinh tế APEC. Du lịch nội địa chiếm 80% giá trị thu được từ phát triển du lịch, có xu hướng tăng mạnh trong thời gian tới.
Ở Việt Nam, năm 2019, trong tổng số tổng thu hơn 720.000 tỷ đồng từ du lịch, thu từ khách du lịch quốc tế chiếm khoảng 59%, thu từ khách du lịch nội địa mới chiếm khoảng 41%. Tuy nhiên theo nhiều chuyên gia thu từ khách du lịch nội địa chưa được thống kê đầy đủ vàdự báo khách du lịch nội địa Việt Nam ngày càng chiếm vai trò quan trọng hơn đối với sự phát triển của ngành du lịch do thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng, nhất là tầng lớp trung lưu. Theo Tập đoàn tư vấn Boston, tầng lớp trung lưu của Việt Nam dự báo sẽ khoảng 33 triệu người vào năm 2030, giúp gia tăng tiêu dùng cá nhân và thúc đẩy thương mại bán lẻ, đồng thời là động lực lớn thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch.
Những xu thế phát triển du lịch trên đây sẽ có những ảnh hưởng đến việc nhìn nhận về thị trường du lịch mục tiêu mà mỗi điểm đến sẽ tập trung khai thác để đem lại hiệu quả cao nhất về KT-XH song cũng phải phù hợp với giai đoạn phát triển điểm đến và đặc điểm tiềm năng tài nguyên du lịch cũng như khả năng "cung" về sản phẩm - dịch vụ du lịch.
Phát triển du lịch Thanh Hóatrong giai đoạn mới cũng không phải là ngoại lệ và cần phải có những điều chỉnh về cơ cấu ngành phù hợp.
4. Quan điểm và mục tiêu phát triển
Trên cơ sở các quan điểm chung theo chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; căn cứ các đặc điểm riêng của vùng Bắc Trung Bộ và tỉnh Thanh Hóa, phát triển du lịch Thanh Hóa cần được dựa trên các quan điểm chủ yếu sau: (i) Phát triển du lịch nhanh và bền vững, phát huy tối đa lợi thế so sánh trong phát triển để có đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế trong khi vẫn bảo tồn được các giá trị tự nhiên và văn hoá, tạo nhiều cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho cộng đồng địa phương. (ii) Phát triển du lịch phù hợp với Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam; với định hướng phát triển kinh tế - xã hội vùng Bắc Trung Bộ và thống nhất với các quy hoạch ngành khác có liên quan trên địa bàn. (iii) Phát triển đồng thời du lịch văn hóa, du lịch biển, du lịch sinh thái trong đó lấy du lịch văn hóa làm mũi nhọn trong đó du lịch di sản, du lịchtrải nghiệm các di tích, lễ hội văn hóa làm trọng tâm dựa trên lợi thế so sánh về các giá trị lịch sử - văn hóa của vùng đất địa linh nhân kiệt để phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù của Thanh Hóa. Đây đồng thời sẽ là yếu tố quan trọng để cơ bản hạn chế được ảnh hưởng của tính mùa vụ đến du lịch Thanh Hóa. (iv) Phát triển du lịch Thanh Hóa chuyển từ "Điểm" (từng địa phương trong tỉnh) sang "Vùng" (địa bàn trọng điểm của tỉnh và Thanh Hóa gắn với vùng Bắc Trung Bộ); từ "Số lượng" sang "Chất lượng", có trọng tâm, trọng điểm; tập trung phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả và tính chuyên nghiệp để đảm bảo sản phẩm du lịch có thương hiệu và tính cạnh tranh cao đáp ứng yêu cầu của thị trường. (v) Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển du lịch với bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Tăng cường liên kết phát triển du lịch giữa Thanh Hóa với các địa phương trong vùng Bắc Trung Bộ và vùng Đồng sông Hồng & Duyên hải Đông Bắc, đặc biệt với Thủ đô Hà Nội để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế về du lịch của Thanh Hóa.
Trên cơ sở những quan điểm trên, mục tiêu tổng quát đối với phát triển du lịch Thanh Hóa gồm:
- Phát triển Thanh Hóa trở thành một trong những trong điểm du lịch của cả nước, trung tâm du lịch của vùng Bắc Trung Bộ: Với tiềm năng về tài nguyên du lịch và lợi thế so sánh như đã đề cập cùng với những cơ hội phát triển, Thanh Hóa hội tụ đầy đủ các yếu tố và điều kiện thuận lợi để phát triển thành trung tâm du lịch của vùng Bắc Trung Bộ vào những năm 2030 và trở thành một trong những trọng điểm du lịch của cả nước sau những năm 2030.
- Phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có đóng góp tích cựcđối với phát triển kinh tế - xã hội địa phương tỉnh Thanh Hóa và vùngBắc Trung Bộ nói chung: Khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế để phát triển Thanh Hóa trở thành điểm đến hàng đầu của Việt Nam về du lịchlịch sử - văn hóa. Tập trung đầu tư xây dựng cụm Thành nhà Hồ - Lam Kinh - Suối cá Cẩm Lươngtrở thành trọng điểm du lịch hấp dẫn của vùng Bắc Trung Bộ; TP. Thanh Hóa và Sầm Sơn trở thành trung tâm du lịch gắn với đô thị giàu bản sắc văn hóa tầm cỡ trong vùng; và các tổ hợp dịch vụ du lịch đẳng cấp quốc tế.
Phấn đấu đến năm 2030, du lịch Thanh Hóa trở thành ngành kinh tế quan trọng, tạo tiền đề trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế của tỉnh sau những năm 2030, góp phầntích cực đảm bảo an ninh, quyền chủ biên giới của Đất nước. Đến năm 2045, phát triển du lịch từ vị trí là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh trở thành ngành kinh tế trụ cột chính.
Dựa trên hệ thống các tiêu chí của ngành kinh tế mũi nhọn được đề cập ở trên, những mục tiêu tổng quát triển phát triển du lịch Thanh Hóa cho giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 sẽ được cụ thể hóa cho từng giai đoạn phát triển như sau:
- Đến năm 2030: Tỷ lệ đóng góp trực tiếp của du lịch trong GRDP tỉnh Thanh Hóa đạt từ 10,0% - 12,0%. Tỷ lệ việc làm trực tiếp trong ngành đạt 8,0% tổng số lao động trong độ tuổi của tỉnh Thanh Hóa, tạo ra số lao động gián tiếp cho xã hội bằng 1,5 số lao động trực tiếp. Tỷ lệ đóng góp của một số ngành liên quan trực tiếp gồm: thương mại, giao thông vận tải, xây dựng, nông nghiệp từ giá trị gia tăng do du lịch đem lại trong GRDP Thanh Hóa đạt từ 8,0 - 10,0%.
- Đến năm 2045:Tỷ lệ đóng góp trực tiếp của du lịch trong GRDP tỉnh Thanh Hóa đạt trên 15,0%. Tỷ lệ việc làm trực tiếp trong ngành đạt từ 10,0 - 15% tổng số lao động trong độ tuổi của tỉnh Thanh Hóa, tạo ra số lao động gián tiếp cho xã hội bằng 2,0 số lao động trực tiếp. Tỷ lệ đóng góp của một số ngành liên quan trực tiếp gồm: thương mại, giao thông vận tải, xây dựng, nông nghiệp từ giá trị gia tăng do du lịch đem lại trong GRDP Thanh Hóa đạt từ 10,0 - 15,0%.
5. Nhiệm vụ và giải pháp
Để có thể thực hiện được các mục tiêu phát triển du lịch Thanh Hóa trở thành ngành kinh tế quan trọng đến năm 2030, tạo tiền đề trở thành ngành kinh tế mũi nhọn sau những năm 2030 và đến năm 2045 trở thành một trong những trụ cột kinh tế chính, một số nhiệm vụ và giải pháp cụ thể cần được xem xét, tập trung thực hiện bao gồm:
a) Giai đoạn 2021- 2030
Trong giai đoạn này, để có thể khắc phục có hiệu quả những hạn chế của du lịch trong giai đoạn đến năm 2020 để trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh vào năm 2030, tạo tiền đề để thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn sau những năm 2030 với những tiêu chí cụ thể như đề ra ở trên, một số nhiệm vụ và giải pháp chính cần chú trọng gồm:
-Nâng cao nhận thức đúng về du lịch: (i) Tiếp tục đẩy mạnh hơn công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức xã hội về du lịch với các hình thức phù hợp. Đặc biệt chú trọng tổ chức phổ biến, quán triệt, tuyên truyền sâu rộng nội dung Nghị quyết 08-NQ/TW đến các Sở, ngành, địa phương, tổ chức Đảng các cấp, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức, doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, trong đó chú trọng nâng cao nhận thức về các quan điểm mới của Đảng về bản chất ngành du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng, xã hội hoá cao, mang nội dung văn hoá sâu sắc, đem lại hiệu quả nhiều mặt về kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, đối ngoại và an ninh, quốc phòng; vị trí, vai trò động lực của ngành du lịch thúc đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác. Quá trình nâng cao nhận thức du lịch cần tạo ra được sự chuyển biến căn bản trong hành động phát triển du lịch, về trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ bảo tồn các giá trị lịch sử – văn hóa,bảo vệ môi trường du lịch, đảm bảo chất lượng dịch vụ du lịch và các dịch vụ công liên quan đến hoạt động du lịch và trong thực hiện xây dựng thương hiệu điểm đến du lịch Thanh Hóa, thương hiệu doanh nghiệp và sản phẩm du lịch. (ii) Trên cơ sở nâng cao nhận thức về du lịch cho toàn xã hội và đặc biệt đối với hệ thống quản lý du lịch (chuyên ngành và lãnh thổ) cần tạo được sự chuyển biến trong hành động của các cấp, các ngành và toàn dân để có được môi trường du lịch (tự nhiên, văn hóa - xã hội, an ninh - trật tự an toàn xã hội) tốt nhất cho phát triển du lịch thực sự trở thành kinh tế mũi nhọn theo hướng bền vững.
- Hoàn thiện thể chế, bộ máy quản lý và đẩy mạnh đầu tư khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế du lịch: (i) Đổi mới tổ chức bộ máyquản lý nhà nước về du lịch nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch, phù hợp với vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn, theo đó cần thành lập Sở Du lịch, tách ra từ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa hiện nay. (ii) Rà soát, hoàn thiện và cụ thể hóa các chính sách hiện hành về phát triển du lịchThanh Hóa phù hợp với Luật Du lịch và các luật hiện hành có liên quan, phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị về "Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020" và Kết luận 26-KL/TW, ngày 02/8/2012 của Bộ Chính trị (Kết luận 26-KL/TW) của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW; đặc biệt là phù hợp các chính sách thể hiện cụ thể trong Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 16/1/2017 của Bộ chính trị về "Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn" và Nghị quyết số 92/NQ-CP ngày 08/12/2014 của Chính phủ "Về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới" trong điều kiện của địa phương và đề xuất một số chính sách đặc thù(trong khuôn khổ pháp luật) đối với các huyện phía Tây Thanh Hóa (thuộc vùng Tây Bắc) còn nhiều khó khănđể tạo đột phá nhằm thu hút các nguồn lực xã hội, các nhà đầu tư chiến lược cho phát triển du lịch Thanh Hóa tương xứng vị thế của mình. (iii) Tăng cường đầu tư có trọng điểm theo quy hoạch vào hạ tầng và hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, hệ thống giao thông liên kết giữa TP. Thanh Hóa với các địa bàn trọng điểm du lịch của tỉnh, đặc biệt là đường kết nối với Sầm Sơn; đầu tư ở những địa bàn trọng điểm du lịch, đặc biệt là cụm du lịch:Thành nhà Hồ - Lam Kinh - Suối cá Cẩm Lương với trọng tâm là du lịch lịch sử - văn hóa; cụm nghỉ dưỡng, thể thao biển: Sầm Sơn, Hải Tiến, Hải Hòa, Nam Sầm Sơn, Nghi Sơn - đảo Mê với trọng tâm là du lịch nghỉ dưỡng biển và cụm du lịch Nghi Sơn - Bến En với trọng tâm là du lịch sinh thái nhằm phát triển dịch vụ cao cấp hướng vào thị trường khách có nhu cầu trải nghiệm các giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống dân tộc, trải nghiệm thiên nhiên hoang sơ và lưu trú dài ngày và chi tiêu cao.Hình thành một số quần thể du lịch, vui chơi giải trí, thể thao đẳng cấp quốc tế, một số điểm đến du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng và du lịch nông thôn.
Đề xuất Chính phủ đầu tư nâng cấp mở rộng sân bay Thọ Xuân để phục vụ nhu cầu khách du lịch cao cấp từ các trung tâm du lịch lớn ở Việt Nam, trước mắt là từ Hà Nội, Hạ Long, Đà Nẵng, Nha Trang, TP. HCM, Cần Thơ và Phú Quốc.
+ Triển khai Luật du lịch trong điều kiện thực tế của địa phương để xây dựng và kiến nghị cấp có thẩm quyền cho phép thực hiện cơ chế lập "Quỹ phát triển du lịch"(Quỹ xúc tiến du lịch) như Đà Nẵng đã lập (Quyết định số 782/QĐ-UBND ngày 7/3/2020 của UBND TP. Đà Nẵng về việc thành lập Quỹ xúc tiến phát triển du lịch thành phố Đà Nẵng)để tạo nguồn lực cho phát triển du lịchThanh Hóa, đặc biệt từmô hình liên kết công - tư trong lĩnh vực du lịch;
+ Thực hiện chiến lược marketing cho du lịchThanh Hóa, trong đó chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin,đầu tư ưu tiên phát triển E-marketing. Tập trung nguồn lực xúc tiến quảng bá du lịch đến một số thị trường quốc tế mục tiêu của tỉnh làTây Âu (ưu tiên thị trường Pháp), Bắc Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc, Hàn Quốc với các phân khúc phù hợp. Chú ý tính chuyên nghiệp trong hoạt động Marketing cũng như sự cần thiết phải liên kết vùng trong hoạt động này;
+ Nâng cao năng lực cạnh tranh của điểm đến du lịch Thanh Hóa dựa trên tính độc đáo của các sản phẩm du lịch được tạo ra trên cơ sở khai thác những giá trị lịch sử - văn hóakết hợp với các giá trị cảnh quan, nếp sống, canh tác để đẩy mạnh hơn du lịch cộng đồngvà những giá trị tự nhiên nổi trội của địa phương Thanh Hóa (du lịch sinh thái, du lịch tham quan thắng cảnh, du lịch hang động, du lịch đường sông, du lịch ẩm thực), trong đó coi trọng phát triển các sản phẩm du lịch "xanh" mà trọng tâm là du lịch sinh thái thân thiện môi trường, góp phần tích cực ứng phó với tác động biến đổi khí hậu;
- Phát triển sản phẩm - thị trường du lịch
Xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm để khắc phục những hạn chế, đặc biệt là về ngày lưu trú, mức chi tiêu trung bình và tỷ lệ quay lại của khách du lịch, đảm bảo phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Để thực hiện có kết quả nhiệm vụ này một số giải pháp cụ thể cần chú trọng bao gồm: Thực hiện cơ cấu lại ngành du lịch với trọng tâm cơ cấu lại hệ thống sản phẩm - thị trường du lịch Thanh Hóa theo hướng chuyển từ ưu tiên phát triển du lịch biển sang khai thác lợi thế về lịch sử văn hóa để phát triển dòng sản phẩm du lịch trải nghiệm bề dày văn hóa - lịch sử Việt Nam trên đất Thanh và văn hóa truyền thống địa phương,tăng cường thu hút thị trường khách quốc tế có nhu cầu đối với sản phẩm du lịch văn hóa, qua đó nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch.
Bên cạnh đó vẫn tiếp tục đàu tư có chiều sâu, nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng biển cao cấp kết hợp du lịch golf, du lịch MICE.Thực hiện chiến lược phát triển sản phẩm du lịch ở 03 cấp độ sản phẩm với mức độ ưu tiên khác nhau về chính sách và đầu tư: sản phẩm du lịch đặc thù, sản phẩm du lịch chính và sản phẩm du lịch bổ trợ nhằm đa dạng hóa sản phẩm du lịch song phải tạo được các sản phẩm du lịch đặc thù có sự khác biệt để hấp dẫn du khách, đặc biệt là khách du lịch cao cấp có khả năng chi trả cao, lưu trú dài ngày. Chú trọng phát triển sản phẩm du lịch xanh, thân thiện môi trường phù hợp với xu thế "cầu" của thị trường, đặc biệt là thị trường cao cấp. Thực hiện đề án "Phát triển kinh tế đêm trong lĩnh vực du lịch" với trọng tâm đề xuất chính sách và các sản phẩm, dịch vụ du lịch cụ thể, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch, kéo dài ngày lưu trú, mức chi tiêu trung bình và sự hài lòng của khách du lịch.
- Nâng cao hiệu quả quản lý điểm đến và chất lượng dịch vụ du lịch
Tập trung quản lý phát triển các điểm đến du lịch Thanh Hóa đạt những tiêu chí an toàn, thân thiện và hiếu khách thông qua: Tăng cường năng lực quản lý nhà nước về du lịch từ tỉnh tới các địa phương cấp huyện với việc phân cấp: cấp tỉnh đảm bảo thực hiện chức năng quy hoạch, định hướng phát triển; tổ chức hoạt động xúc tiến quảng bá, theo dõi quản lý và thúc đẩy liên kết vùng; cấp huyện thực hiện quản lý điểm đến trên địa bàn, phối hợp với cấp tỉnhquản lý chất lượng dịch vụ, đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội; cấp Ban quản lý khu du lịch và điểm du lịch trong tỉnh thực hiện quản lý điểm đến, kiểm soát chất lượng các dịch vụ. Hình thành hệ thống kiểm soát chất lượng trong ngành du lịch, đảm bảo duy trì chất lượng và sức cạnh tranh cho điểm đến du lịch thể hiện qua thương hiệu du lịch từ đó tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong ngành du lịch Thanh Hóa. Thực hiện các biện pháp kiểm soát chất lượng, chống phá giá, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, sử hữu công nghiệp, chống nhái thương hiệu các sản phẩm và dịch vụ du lịch tại điểm đến. Thực hiện quản lý phát triển du lịch Thanh Hóa theo đề án "Quy hoạch phát triển du lịch Thanh Hóa đến năm 2025 tầm nhìn 2030" đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 492 ngày 9/2/2015, phù hợp với chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 147/QĐ-TTg ngày 22/1/2020, đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên: khách du lịch, cộng đồng dân cư, doanh nghiệp gắn với mục tiêu phát triển kinh tế, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường. Thực hiện đề án "Phát triển Thanh Hóa thành điểm đến du lịch thông minh" với việc cung cấp đầy đủ, minh bạch và cập nhật các thông tin mà du khách quan tâm về Thanh Hóa nói chung và một số địa bàn trọng điểm nói riêng một cách thuận tiện và nhanh nhất trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin.
- Tăng cường liên kết, phối hợp liên ngành, liên vùng trong phát triển du lịch: Sở VHTTDL xây dựng và trình UBND tỉnhThanh Hóa ban hành cơ chế phối hợp liên ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển với tư cách là ngành kinh tế mũi nhọn có vai tròtạo sự lan tỏa cho các ngành, lĩnh vực liên quan cùng phát triển để từ đó huy động nguồn lực liên ngành phục vụ phát triển du lịch Thanh Hóa. Cùng các địa phương trong vùng Bắc Trung Bộ kiến nghị Chính phủ tháo gỡ rào cản về thể chế vùng để nâng cao hiệu quả về thực chất hoạt động liên kết phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ mà ở đó Thanh Hóa giữ vai trò nòng cốt, vai trò "cầu nối" với vùng Đồng bằng sông Hông và Duyên hải Đông Bắc. Chủ động đẩy mạnh các tổ chức liên kết phát triển vùng Bắc Trung Bộ để điều tiết, khuyến khích và quản lý các hoạt động du lịch vùng, khai thác có hiệu quả, hình thành các sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng, hạn chế sự trùng lặp về sản phẩm du lịch trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa với các địa phương khác trong vùng.
Đẩy mạnh hoạt động mô hình liên kết công-tư trong việc huy động nguồn lực xã hội để tăng cường đầu tư cho xúc tiến, quảng bá điểm đến, phát triển thương hiệu điểm đến du lịch Thanh Hóa. Chú trọng nâng cao tính chuyên nghiệp, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động xúc tiến quảng bá. Có cơ chế thúc đẩy liên kếtThanh Hóa với các địa phương vùng Bắc Trung Bộ và xa hơn là liên kết liên vùng ở tầm quốc gia và khu vực trong hoạt động xúc tiến, quảng bá và phát triển du lịch.
- Phát triển nguồn nhân lực du lịch: Nhận thức con người là nền tảng của mọi sự phát triển, chú trọng đối với phát triển nguồn nhân lực du lịch Thanh Hóa đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng.
+ Rà soát và hoàn chỉnh các chính sách hỗ trợ để nâng cao năng lực đào tạo của các cơ sở đào tạo về du lịch trên địa bàn tỉnh; xây dựng các chính sách đặc thù thu hút nguồn lực và đội ngũ giảng viên có trình độ tham gia công tác đào tạo nhân lực du lịch; khuyến khích liên kết về thực chất giữa các cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp du lịch;
+ Chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp về du lịch; đẩy mạnh đầu tư cho đào tạo quản lý, đào tạo tại chỗ, đào tạo giáo viên, giảng viên, đào tạo viên và hướng dẫn viên các ngoại ngữ hiếm và nâng cao nhận thức du lịch cho các cấp, các ngành liên quan đến du lịch và cộng đồng địa phương;
+ Ưu tiên đầu tư phát triển nhân lực du lịch ở các địa bàn trọng điểm du lịch của tỉnh ngoài TP. Thanh Hóa và Sầm Sơn, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng núi phía Tây của tỉnh để từng bước tăng cường năng lực tham gia của cộng đồng địa phương cho phát triển du lịch;
- Bảo tồn các giá trị tài nguyên và bảo vệ môi trường du lịch:
+ Thực hiện chính sách và các chương trình hành động du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội; có chính sách hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng, du lịch xanh với trọng tâm là du lịch sinh thái; xây dựng "Nhãn du lịch văn hóa", "Nhãn du lịch xanh" như một tiếp cận quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý và xúc tiến các sản phẩm du lịch đặc thù của Thanh Hóa, trong đó "Nhãn du lịch xanh" ưu tiên đối với Vườn quốc gia Bến En và các khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, Pù Hu và Xuân Liên ở Thanh Hóa;
+ Đầu tư tăng cường năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu trong tổ chức hoạt động du lịch và cung cấp dịch vụ du lịch; chủ động xây dựng kế hoạch quản lý rỏi ro với tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt đối việc bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa, hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở vùng có nguy cơ cao, đặc biệt ở vùng ven biển.
+ Chú trọng quản lý các điểm đến du lịchtrên địa bàn tỉnh, đặc biệt là khu du lịch Sầm Sơn theo "Sức chứa" để đảm bảo hạn chế tối đa tác động của tình trạng tập trung khách du lịch đến tài nguyên, môi trường du lịch, hạ tầng xã hội, an ninh trật tự an toàn xã hội và sự hài lòng của người dân tại điểm đến.
b) Giai đoạn 2031- 2045
Trong giai đoạn này cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả hơn những giải pháp cơ bản trên để đảm bảo du lịch phát triển thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và tiến tới trở thành ngành kinh tế "trụ cột" của tỉnh vào những năm 2045.
Trong số những nhiệm vụ và giải pháp trên, chú trọng với một số nhiệm vụ trọng yếu sau:
- Hoàn thiện hệ thống hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
+ Hoàn thiện việc nâng cấp, mở rộng sân bay Thọ Xuân đạt các tiêu chuẩn quốc tế hiện đại, tân tiến để đảm bảo kết nối du lịch với không chỉ các trung tâm du lịch ở Việt Nam như Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, … mà còn với các trung tâm du lịch trong khu vực và quốc tế.
+ Nâng cấp mở rộng Tổ hợp du lịch vui chơi giải trí, mua sắm, dịch vụ tại TP. Thanh Hóa thành trung tâm cấp vùng hoạt động 24/7.Xây dựng một tổ hợp tương tự, có quy mô nhỏ hơn tại Sầm Sơn để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, đặc biệt vào mùa du lịch.
- Có được đội ngũ lao động chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế trụ cột của tỉnh.
+ Hoàn thành việc xây dựng hệ thống cơ sở đào tạo hiện đại đủ năng lực đào tạo đội ngũ sinh viên với các cấp trình độ từ trung cấp - cao đẳng nghề du lịch đến đại học và sau đại học, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch không chỉ của địa phương tỉnh Thanh Hóa mà còn cho các địa phương phụ cận thuộc vùng Bắc Trung Bộ và vùng Đồng bằng sông Hồng & Duyên hải Đông Bắc.
+ Chú trọng việc hoàn thiện các chính sách đặc thù để thu hút các giảng viên, nhà khoa học có trình độ caotrong nước và quốc tế tế tham gia công tác đào tạo tại Thanh Hóa. Đẩy mạnh về thực chất liên kết với doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao ở Thanh Hóa.
Các nhiệm vụ và giải pháp quan trọng trên đâysẽ đảm bảo việc thực hiện có kết quả các mục tiêu phát triển bền vững, phù hợp các quan điểm phát triển du lịch của tỉnh Thanh Hóa giai đoạn phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 tương xứng với tiềm năng và vị thế, góp phần tích cực hơn vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương với tư cách là ngành kinh tế quan trọng vào năm 2030, tạo tiền đề phát triển thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn ngay những năm sau 2030 và trở thành ngành kinh tế trụ cột của tỉnh đến năm 2045.
6. Kiến nghị UBND tỉnh Thanh Hóa
- Tiếp tục tổ chức thực hiện thành công các tư tưởng chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọnvới quyết tâm chính trị cao trên cơ sở tiếp tục nâng cao nhận thức xã hội, sự đồng lòng,nỗ lực của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, sự đồng tình của cộng đồng doanh nghiệp du lịch.
- Chú trọng việc xây dựng cơ chế, chính sách đặc thùtrình cấp có thẩm quyền ban hành để có nguồn lực không chỉ cho việc đây mạnh thu hút đầu tư, phát triển du lịch mà còn cho nỗ lực bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa lịch sử; bảo vệ môi trường và ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nói chung, đặc biệt là ở các địa bàn trọng điểm phát triển du lịch cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh điểm đến Thanh Hóa của quá trình hội nhập.
Nếu không bảo tồn và phát huy được những giá trị văn hóa lịch sử được xem là "linh hồn" của du lịch Thanh Hóa trong giai đoạn phát triển tới thì du lịch Thanh Hóa không thể có được bản sắc riêng. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc rất khó sẽ đạt được mục tiêu phát triển của du lịch Thanh Hóa đặt ra cho giai đoạn tới.
- Quan tâm và chủ động thực hiện nỗ lực liên kết du lịch Thanh Hóa với các địa phương trong vùng Bắc Trung Bộ và vùng Đồng bằng sông Hồng & Duyên hải Đông Bắc, đặc biệt với Hà Nội; kết nối TP. Thanh Hóa với Sầm Sơn và các địa bàn trọng điểm du lịch của tỉnh để khai thác có hiệu quả tiềm năng tài nguyên, lợi thế du lịch và đẩy mạnh phát triển sản phẩm du lịch đặc thù, đa dạng hóa sản phẩm du lịch, nâng cao hiệu quả tăng trưởng du lịch và tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho cộng đồng./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Ban Chấp hành Đảnh bộ tỉnh Thanh Hóa (2015). "Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XVII, tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020".
2. Phạm Trung Lương."Những vấn đề đặt ra đối với cơ cấu lại ngành du lịch trong bối cảnh mới". Tuyển tập Hội thảo "Những vấn đề đặt ra trong tái cơ cấu ngành du lịch". Hà Nội, 21/12/2017.
3. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa (2015).Đề án"Phát triển nguồn nhân lực du lịch Tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020".
4. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa (2015). Đề án"Phát triển sản phẩm du lịch mũi nhọn tỉnh Thanh Hóa đến 2025, tầm nhìn 2030".
5. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch.Số liệu thống kê Du lịch của giai đoạn 2010- 2015.
6. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thanh Hóa (2016). "Chiến lược phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030"
7.Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa (2017)."Quy hoạch phát triển du lịch Thanh Hóa đến năm 2025 tầm nhìn 2030"
8. UBND tỉnh Thanh Hóa (2014)."Kế hoạch triển khai Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 14/11/2014 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa về lĩnh vực du lịch".
9. UBND tỉnh Thanh Hóa (2015)."Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 92/NQ-CP ngày 08/12/2014 của Chính phủ về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch trong thời kỳ mới".
10. UBND tỉnh Thanh Hoá (2018), "Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2018".