"Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hay còn gọi là Công nghiệp 4.0 dự báo là một xu thế lớn có tác động đến phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, từng khu vực và toàn cầu. Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề này khi hiện nay đang khởi phát nhiều nghiên cứu cho rằng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động mạnh mẽ, toàn diện trên các khía cạnh chủ yếu của nền kinh tế mỗi quốc gia như về cấu trúc, trình độ phát triển, tốc độ tăng trưởng, mô hình kinh doanh, thị trường lao động… Trên phạm vi toàn cầu, có ý kiến cho rằng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang vẽ lại bản đồ kinh tế thế giới với sự suy giảm quyền lực của các quốc gia phát triển dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và sự gia tăng sức mạnh của các quốc gia dựa chủ yếu vào công nghệ và đổi mới sáng tạo"…
Các đại biểu thảo luận chuyên đề tại Hội thảo
… Đó là lời khẳng định của đồng chí Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương tại Hội thảo: "Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam" do Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với Viện Hàn lâm Khoa học và Xã hội Việt Nam, Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc tại Việt Nam (UNDP) đồng tổ chức ngày 25/11 vừa qua.
Việc người có tiếng nói quan trọng trong Đảng về các lĩnh vực kinh tế - xã hội như đồng chí Trưởng Ban Kinh tế Trung ương lên tiếng về sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cho thấy tầm quan trọng của cuộc cách mạng này trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói chung và đối với lĩnh vực công nghiệp nói riêng hiện nay. Điều này cũng hoàn toàn nhất quán với những chủ trương, định hướng lớn của Đảng. Đại hội Đảng lần thứ XII đã xác định, đối với giai đoạn 2016 - 2020: "phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững"; Đảng đã nhận định trong giai đoạn này "khoa học, công nghệ phát triển rất nhanh cùng với toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia". Trong lĩnh vực công nghiệp, Nghị quyết số 05/NQ-TƯ, ngày 01/11/2016 của BCH Trung ương Khóa XII đã đề ra nhiệm vụ "xây dựng và thực hiện chính sách công nghiệp quốc gia, tạo khuôn khổ chính sách đồng bộ, trọng tâm, đột phá, hướng vào tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh".
Để nhận diện đặc trưng và tiềm năng to lớn của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng như những cơ hội và thách thức, thuận lợi và khó khăn đối với Việt Nam trước tác động của Công nghiệp 4.0, đặc biệt là những kiến nghị, đề xuất cụ thể về các định hướng, chính sách cho từng ngành, từng lĩnh vực của Việt Nam để tận dụng tốt cơ hội và vượt qua được những thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp, giúp Việt Nam thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến hiện nay, Ban Kinh tế Trung ương - với vị thế là một cơ quan nghiên cứu, tham mưu chiến lược cấp cao nhất của Đảng về lĩnh vực kinh tế - xã hội đã rất kịp thời phối hợp tổ chức Hội thảo "Cuộc các mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam" để lãnh đạo Đảng, Nhà nước có thể bao quát mang tầm chiến lược và đưa ra những chủ trương, định hướng phát triển một cách toàn diện trong thời gian tới.
Công nghiệp 4.0 - Đột phá theo "cấp số nhân"
Tại Hội thảo, TS. Nguyễn Thắng, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam cho rằng: Tốc độ phát triển của những đột phá trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư này là không có tiền lệ trong lịch sử. Nếu như các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây diễn ra với tốc độ theo cấp số cộng (hay tuyến tính) thì tốc độ phát triển của cách mạng công nghiệp lần thứ tư này là theo cấp số nhân. Thời gian từ khi các ý tưởng về công nghệ và đổi mới sáng tạo được phôi thai, hiện thực hóa các ý tưởng đó trong các phòng thí nghiệm và thương mại hóa ở qui mô lớn các sản phẩm và qui trình mới được tạo ra trên phạm vi toàn cầu được rút ngắn đáng kể. Những đột phá công nghệ diễn ra trong nhiều lĩnh vực như kể trên với tốc độ rất nhanh và tương tác thúc đẩy nhau đang tạo ra một thế giới được số hóa, tự động hóa và ngày càng trở nên hiệu quả và thông minh hơn.
Ý kiến của TS. Nguyễn Thắng được các đại biểu tham dự Hội thảo đồng tình khi mà Cuộc cách mạng công nghệ đang diễn ra, bắt đầu từ những năm 2000, đặc trưng bởi sự hợp nhất, không có ranh giới giữa các lĩnh vực công nghệ, vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Đây là xu hướng kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, vạn vật kết nối Internet (IoT) và các hệ thống kết nối Internet (IoS). Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư này đang làm thay đổi cách thức sản xuất, chế tạo. Trong các "nhà máy thông minh", các máy móc được kết nối Internet và liên kết với nhau qua một hệ thống có thể tự hình dung toàn bộ quy trình sản xuất rồi đưa ra quyết định sẽ thay thế dần các dây chuyền sản xuất trước đây. Nhờ khả năng kết nối của hàng tỷ người trên trên thế giới thông qua các thiết bị di động và khả năng tiếp cận được với cơ sở dữ liệu lớn, những tính năng xử lý thông tin sẽ được nhân lên bởi những đột phá công nghệ trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, công nghệ người máy, Internet kết nối vạn vật, xe tự lái, công nghệ in 3 chiều, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học vật liệu, lưu trữ năng lượng và tính toán lượng tử.
Công nghiệp 4.0 trên bình diện quốc tế
Bàn về những thay đổi trên thế giới dẫn đến Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, GS. Mike Gregory, nguyên Trưởng Bộ môn chế tạo và quản lý, Đại học Cambridge; Nguyên Giám đốc điều hành Viện Cambridge – MIT cho biết, những công nghệ hiện đại đã là một phần không thể tách rời của sự thay đổi từng ngày diễn ra ở mọi quốc gia, trên thế giới. Những công nghệ như thông tin, số hóa không chỉ để giao tiếp mà còn giúp chúng ta thực hiện những công nghệ mới như in 3D - một công nghệ chưa từng có. Ngoài ra, những tiến bộ trong công nghệ sinh học đang khiến thế giới dần thay đổi cách thức chế tạo dược phẩm; công nghệ nano - một công nghệ về một thứ siêu nhỏ nhưng mang hàm ý rất lớn.
Ông cho biết thêm, tại những quốc gia đang phát triển, công tác giáo dục, đào tạo đang được tập trung đẩy mạnh. Bởi họ đã nhận thức được cần phải trang bị cho nguồn nhân lực của quốc gia những kỹ năng mới để ứng phó với những thay đổi trong thời đại mới.
GS. Mike cũng đã mô tả những đặc tính của một hệ thống sản xuất công nghiệp hiện đại cần phải có trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đó là hoạt đông sản xuất sẽ mang tính phân tán chứ không tập trung. Ông cho rằng mọi thứ sẽ thay đổi trong công nghiệp 4.0, vì vậy khi thiết kế hệ thống sản xuất công nghiệp, cần thiết kế với tiêu chí linh hoạt, thích ứng với sự thay đổi một cách nhanh chóng.
Về mặt kinh tế, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tác động đến tiêu dùng, sản xuất và giá cả. Từ góc độ tiêu dùng và giá cả, mọi người dân đều được hưởng lợi nhờ tiếp cận được với nhiều sản phẩm và dịch vụ mới có chất lượng với chi phí thấp hơn.
TS. Nguyễn Thắng - Giám đốc Trung tâm Phân tích và Dự báo, Viện Hàn lâm KHXH
Việt Nam (VASS) phát biểu tham luận
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng tác động tích cực đến lạm phát toàn cầu. Nhờ những đột phá về công nghệ trong các lĩnh vực năng lượng (cả sản xuất cũng như sử dụng), vật liệu, Internet vạn vật, người máy, ứng dụng công nghệ in 3D (hay còn được gọi là công nghệ chế tạo đắp dần, có ưu việt là giúp tiết kiệm nguyên vật liệu và chi phí lưu kho hơn nhiều so với công nghệ chế tạo cắt gọt truyền thống v.v… đã giúp giảm mạnh áp lực chi phí đẩy đến lạm phát toàn cầu nhờ chuyển đổi sang một thế giới hiệu quả, thông minh và sử dụng nguồn lực tiết kiệm hơn.
Từ góc độ sản xuất, trong dài hạn, cuộc cách mạng công nghiệp lần này sẽ tác động hết sức tích cực. Kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào động lực không có trần giới hạn là công nghệ và đổi mới sáng tạo, thay cho tăng trưởng chủ yếu dựa vào các yếu tố đầu vào luôn có trần giới hạn.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang vẽ lại bản đồ kinh tế trên thế giới, với sự suy giảm quyền lực của các quốc gia dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và sự gia tăng sức mạnh của các quốc gia dựa chủ yếu vào công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Nhiều quốc gia phát triển song chủ yếu dựa vào tài nguyên như Úc, Canada, Na Uy v.v… đang phải trải qua một quá trình tái cơ cấu nền kinh tế nhiều thách thức. A rập Xê út gần đây đã chính thức tuyên bố về kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng để giảm mạnh sự phụ thuộc vào dầu mỏ. Trừ Ấn Độ, các nước còn lại trong nhóm BRICS đang gặp nhiều thách thức do có nền kinh tế dựa nhiều vào tài nguyên khoáng sản.
Nước Mỹ - đầu tàu thế giới về công nghệ và dẫn dắt cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang khôi phục vị thế hàng đầu của mình trên bản đồ kinh tế thế giới. Các nước Đông Bắc Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan) cũng tham gia mạnh mẽ vào quá trình này, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo. Trung Quốc cũng là nước có thể sẽ được hưởng lợi nhiều do sau nhiều năm xây dựng và củng cố khả năng áp dụng và hấp thụ công nghệ thông qua tăng trưởng xuất khẩu (kể cả bắt chước và sao chép) đã bắt đầu bước vào giai đoạn tạo ra công nghệ với sự xuất hiện mạnh mẽ của một số tập đoàn phát triển công nghệ hàng đầu thế giới. Điều này giúp Trung Quốc giảm nhẹ được tác động của quá trình điều chỉnh đang diễn ra sau giai đoạn tăng trưởng nóng của thập niên trước.
Tại châu Âu, một số nước như Đức, Na Uy có thể tham gia và tận dụng được nhiều cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp mới. Tuy nhiên, nhiều nền kinh tế châu Âu khác tỏ ra hụt hơi trong cuộc đua này cho dù có hệ thống nguồn nhân lực tốt, được lý giải một phần là do tinh thần và môi trường khởi nghiệpđể thúc đẩy phát triển công nghệ mới không bằng so với Mỹ và các nước Đông Bắc Á.
Theo TS. Nguyễn Thắng, Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có những tác động to lớn về kinh tế, xã hội và môi trường ở tất cả các cấp - toàn cầu, khu vực và trong từng quốc gia. Các tác động này mang tính rất tích cực trong dài hạn, song cũng tạo ra nhiều thách thức điều chỉnh trong ngắn đến trung hạn. Đối với Việt Nam, nếu tận dụng tốt cơ hội và vượt qua được các thách thức, Việt Nam sẽ có khả năng thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến hơn, và sớm thực hiện được mục tiêu trở thành nước được công nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Trong trường hợp ngược lại, khoảng cách phát triển với các nước đi trước sẽ tiếp tục gia tăng.
Những tác động chính làm thay đổi xu hướng tăng trưởng của Việt Nam
Cơ hội và thách thức
Trao đổi về vấn đề này, đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình bày trước Hội thảo hai vấn đề quan trọng, đó là cơ hội và thách thức cho Việt Nam.
Về cơ hội, Việt Nam sẽ có điều kiện tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ, thành tựu công nghệ của nhân loại, trước hết là công nghệ thông tin, công nghệ số, công nghệ điều khiển và tự động hóa để nâng cao năng suất, hiệu quả trong tất cả các khâu đặc biệt là quản lý ở cả nền kinh tế, hệ thống chính quyền các cấp, tất cả các ngành lĩnh vực, ở các doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình.
Cơ hội phát triển nhanh hơn nhiều ngành kinh tế và phát triển những ngành mới thông qua mở rộng ứng dụng những tiến bộ, thành tựu về công nghệ thông tin, công nghệ số, công nghệ điều khiển, công nghệ sinh học (thuộc các lĩnh vực như công nghiệp không gian, công nghiệp sáng tạo, công nghiệp giải trí, công nghiệp sinh học, công nghiệp quốc phòng, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao,...).
Cơ hội đón đầu, hình thành và phát triển nhanh nền kinh tế tri thức, thu hẹp khoảng cách và đuổi kịp những nước đi trước trong khu vực và thế giới thông qua tiếp thu, làm chủ và ứng dụng nhanh vào sản xuất kinh doanh, quản lý những tiến bộ, thành tựu công nghệ (kể cả phương thức sản xuất, quản lý) từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Đối với năng lượng tái sinh, đặc biệt là năng lượng mặt trời, năng lưọng sinh học, Việt Nam có lợi thế đối với hai loại hình năng lưọng này bởi chi phícủa nó không quá cao. Việc chuyển dịch cơ cấu năng lượng sẽ giúp Việt Nam giảm tải được áp lực về môi trường và sự phụ thuộc vào bên ngoài đối với thủy điện, nhiệt điện, dầu khí và điện hạt nhân.
Lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ mạng xã hội, di động, phân tích và điện toán đám mây (SMAC) đang là xu hướng mới mẻ của cả thế giới và Việt Nam có cơ hội phát triển lĩnh vực này. Với lợi thế hiện có có hạ tàng Internet tương đối tốt, giá rẻ trong khi thiết bị di động cấu hình cao, giá thấp đang trở nên phổ biến cũng như sự khuyến khích phát triển của chính phủ, Việt Nam có tiềm năng phát triển công nghệ SMAC rất lớn.
Công nghệ sinh học, y học có tác động mạnh mẽ đến năng suất cũng như chất lượng cây trồng vật nuôi, từ đó, tăng giá trị gia tăng trong mỗi sản phẩm nông nghiệp. Việt Nam được đánh giá vẫn có lợi thế đối với ngành nông nghiệp. Neu có những sự cải cách về giống cùng cách thức nuôi, trồng sẽ tạo ra một nền nông nghiệp sạch với các sản phẩm có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Đối với lĩnh vực y tế, nhiều bệnh nan y, nhất là ung thư đang trở thành vấn đề sức khoẻ mang tính chất toàn cầu, gây ra nhũng mất mát về người, sự tốn kém về kinh tế trong điều trị và ngăn chặn. Những công trình nghiên cúu của công nghệ sinh học ứng dụng thành công trong y dược, đặc biệt là trong sản xuất thuốc và trong chuẩn đoán bệnh là đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam trong giai đoạn tới đây.
Về những thách thức, đó là thách thức trong lĩnh vực giải quyết việc làm: Với sự mở rộng ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông tin, điều khiển, tự động hóa. Các hệ thống robot có trí thông minh nhân tạo sẽ thay thế con người trong nhiều công đoạn hoặc trong toàn bộ dây chuyền sản xuất nhất là trong những ngành sử dụng nhiều lao động. Đây là một trong những thách thức lớn nhất, bởi chuyển dịch cơ cấu lao động trong gần 20 năm qua của Việt Nam rất chậm và chậm hơn nhiều nếu so với chuyển dịch cơ cấu GDP. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn dựa nhiều vào các ngành thâm dụng lao động giá rẻ. Tuy nhiên, trong xu thế phát triển của kinh tế tri thức, nguồn nhân ỉực có trình độ chuyên môn giỏi, có năng lực sáng tạo mới là lợi thế. Hơn thế, các công nghệ hiện đại châm ngòi cho cuộc cách mạng mới trong nhiều ngành trong nền kinh tế thế giới như công nghệ in 3D, robot và tự động hóa lại sử dụng rất ít nhân công. Các loại hình công nghệ này sẽ thách thức mô hình "sản xuất hàng loạt" bằng mô hình "tùy chỉnh hàng loạt" và tự động hóa với chi phí thấp hơn. Trong tương lai, nhiều lao động trong các ngành nghề của Việt Nam có thể thất nghiệp ví dụ như lao động ngành nông nghiệp, dệt may, kế toán, lắp ráp và sửa chữa thiết bị. Số lao động này hiện đang chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong lực lượng lao động của nước ta hiện nay. Ngoài ra, nhân lực kém cũng làm một cản trở về nâng cao năng lực tiếp thu, làm chủ và ứng dụng hiệu quả các công nghệ mới ở các quy mô doanh nghiệp, ngành lĩnh vực và cả nền kinh tế trong điều kiện xuất phát điểm phát triển của Việt Nam còn thấp so với nhiều nước.
Thách thức về quản trị nhà nước cũng là một trong nhũng thách thức lớn nhất đối với nước ta. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ gặp nhiều khó khăn nếu công cuộc cải cách cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng được Nhà nước đề ra thực hiện không thành công. Bên cạnh đó nhũng thách thức về an ninh phi truyền thống sẽ tạo ra áp lực lớn nếu Nhà nước không đủ trình độ về công nghệ và kỹ năng quản lý để úng phó.
Các nước công nghiệp mới nổi và nhiều nước đang phát triển đều cạnh tranh quyết liệt, tìm cách thu hút, họp tác để có đầu tư, chuyển giao công nghệ, nhanh chóng úng dụng những thành tựu công nghệ từ cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư đem lại để giành lợi thế phát triển. Áp lực lớn cho Việt Nam về sự tỉnh táo trong hội nhập, hợp tác quốc tế, phát triển nền kinh tế thị trường nhất là thị trường khoa học công nghệ, cải thiện đổi mới môi trường đầu tư kinh doanh, tích lũy đầu tư để thu hút chuyển giao, ứng dụng nhanh những thành tựu khoa học công nghệ vào phát triển nền kinh tế.
Tác động đối với chính phủ và người dân
Đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, khi thế giới vật lý, thế giới số và thế giới sinh học đang tiếp tục xích lại gần nhau hơn thì công nghệ và thiết bị sẽ ngày càng cho phép người dân tiếp cận gần hơn tới chính phủ để nêu ý kiến, để cùng phối hợp hoạt động. Đồng thời, các chính phủ cũng sở hữu sức mạnh về công nghệ để tăng cường sự lãnh đạo của mình đối với người dân dựa trên những hệ thống giám sát rộng rãi và khả năng điểu khiển hạ tầng số. Tuy nhiên, xét về tổng thể, các chính phủ sẽ ngày càng phải đối mặt với áp lực phải thay đổi cách thức tiếp cận hiện nay của họ đối với sự tham gia của công chúng và quy trình đưa ra quyết định khi vai trò trung tâm của họ trong việc thực thi chính sách suy giảm trước sự xuất hiện của các nguồn cạnh tranh mới, sự phân phối lại và phân bổ quyền lực dưới sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ.
Khả năng các cơ quan chính phủ và tổ chức xã hội có thể thích ứng sẽ quyết định sự tồn tại của họ. Nếu chứng minh được khả năng có thể bắt kịp một thế giới với những thay đổi đột phá, cải thiện cơ cấu để đạt mức minh bạch và hiệu quả để cho phép họ duy trì được lợi thế cạnh tranh của mình, họ sẽ tồn tại. Ngược lại, nếu không thể cải thiện, họ sẽ phải đối mặt với ngày càng nhiều vấn đề.
Điều này đặc biệt đúng trong hệ thống điều hành. Các hệ thống chính sách công và quy trình ra quyết định hiện nay được phát triển cùng với cuộc CMCN lần thứ Hai, khi các nhà hoạch định chính sách có thời gian để nghiên cứu một vấn đề cụ thể và đưa ra cách ứng phó cần thiết hoặc khuôn khổ quy định phù hợp. Toàn bộ quá trình này được vận hành trơn tru và có hệ thống, theo mô hình chặt chẽ từ cao xuống thấp. Tuy nhiên, một cách thức như vậy hiện nay không còn khả thi. Trước tốc độ thay đổi nhanh chóng và tác động sâu rộng của cuộc CMCN lần thứ tư, các nhà lập pháp và điều hành đang bị thử thách ở một mức độ chưa từng có tiền lệ và phần lớn trong số đó chưa cho thấy khả năng ứng phó tốt.
Để có thể vừa bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và công chúng nói chung lại vừa tiếp tục hỗ trợ cho sáng tạo và phát triển công nghệ, các nhà lập pháp phải không ngừng thích nghi với môi trường mới và biến đổi nhanh chóng, đồng thời phải trau dồi bản thân để thực sự hiểu rõ họ đang điều hành cái gì. Để làm được vậy, các chính phủ và cơ quan lập pháp cần có sự hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp và công dân của mình.
Cuộc CMCN lần thứ tư sẽ thay đổi không chỉ những gì chúng ta làm mà cả ngay chính con người chúng ta. Nó sẽ làm thay đổi bản sắc của chúng ta và tất cả những vấn đề liên quan tới bản sắc đó, bao gồm: Sự riêng tư, ý thức về sự sở hữu, phương thức tiêu dùng, thời gian chúng ta dành cho công việc, giải trí và cách thức chúng ta phát triển sự nghiệp, trau dồi kỹ năng, gặp gỡ mọi người và củng cố các mối quan hệ. Nó đã và đang làm thay đổi sức khỏe của chúng ta, dẫn tới một cái tôi nhất định, và có thể dẫn tới sự gia tăng dân số nhanh hơn chúng ta nghĩ.
Một trong những thách thức mang tính cá nhân lớn nhất mà các công nghệ thông tin mang lại là sự riêng tư. Thông tin về cá nhân sẽ dễ dàng để tra cứu và tìm kiếm vì chúng ta buộc phải kết nối với các hệ thống điện tử. Tương tự, các cuộc cách mạng diễn ra trong lĩnh vực công nghệ sinh học và trí thông minh nhân tạo giúp định nghĩa lại con người là gì bằng cách hạ thấp những giới hạn hiện tại về tuổi thọ, sức khỏe, nhận thức và năng lực. Chúng buộc chúng ta phải định hình lại những ranh giới về đạo đức xã hội.
Tác động tới chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực
Ở một góc độ khác, PGS. TS. Huỳnh Thành Đạt, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Giám đốc thường trực Đại học Quốc gia TP. HCM nêu lên vấn đề về phát triển nguồn nhân lực. Tiềm năng phát triển của Việt Nam còn rất lớn, tiềm năng về con người của thời kỳ dân số vàng trong đó nổi bật là cơ cấu dân số trẻ. Tuy nhiên, chất lượng khoa học công nghệ và chất lượng giáo dục và đào tại của Việt Nam còn nhiều hạn chế và khoảng cách ngày càng xa so với các nước phát triển.
Chúng ta phải nhận thức rằng chỉ có đại học tiên tiến mới hội tụ các tri thức và trí tuệ siêu việt để có những cảm xúc sáng tạo và đổi mới không ngừng thích ứng với thời đại cách mạng công nghiệp mới và công nghệ kỹ thuật số như hiện nay. Do đó, yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đặc biệt là giáo dục đại học chất lượng cao đã được Đảng, Nhà nước quan tâm sâu sắc.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự quan tâm hỗ trợ của toàn xã hội, giáo dục nước nhà đã có nhiều cố gắng và đạt những thành tựu nhất định, góp phần vào ổn định xã hội và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, giáo dục Việt Nam còn nhiều điều cần tiếp tục phấn đấu nhằm đáp ứng yêu cầu của đất nước, xã hội; cả kiến thức tiên tiến, cập nhật về khoa học và công nghệ mới.
Tất cả những vấn đề nêu trên chỉ được giải quyết ở môi trường giáo dục đại học chất lượng cao bởi vì ở đó là nơi hội tụ những trí tuệ xuất sắc nhất, nhờ đó mới có thể tiếp thu, lan tỏa và phổ biến phát triển tri thức của nhân loại trong khoa học công nghệ, đời sống kinh tế và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Giáo dục đại học chất lượng cao tác động trực tiếp và lan tỏa đến sự phát triển bền vững của đất nước và là cơ sở vững chắc để đón bắt công nghệ mới phụng sự tổ quốc.
Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước cần đầu tư xứng tầm và có chiều sâu để các đại học trọng điểm đi đầu trong công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ mới tiệm cận với các nước tiên tiến.Từ đó, các đại học trọng điểm thu hút nhân tài, hội tụ của các trí tuệ xuất sắc trong giới khoa học, nghiên cứu và giảng dạy. Đồng thời, các đại học trọng điểm tiên phong trong công tác khởi nghiệp ở lĩnh vực công nghệ và tri thức và cũng là nơi ươm mầm tài năng của đất nước trong giai đoạn phát triển và hội nhập quốc tế này.
Một số kiến nghị về chính sách
Tại Hội nghị TS. Nguyễn Thắng, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đề nghị một chương trình nghị sự kép. Qua đó, song song với việc tiếp tục giải quyết những vấn đề liên quan đến kinh tế, xã hội và môi trường còn tồn đọng từ giai đoạn tăng trưởng nóng trước đây là nhanh chóng tận dụng những cơ hội và vượt lên những thách thức mới xuất hiện liên quan đến Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tăng tốc trên phạm vi toàn cầu. Nội dung của kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng cần phải bao gồm những nội dung liên quan đến cả hai nhóm này.
Kiến nghị một chính sách thúc đẩy, theo ông Trương Gia Bình, Chủ tịch Tập đoàn FPT cho rằng cần có những chính sách hỗ trợ nhằm đẩy mạnh việc sáng tạo ra những "vườn ươm công nghệ", khuyến khích khởi nghiệp; thay đổi toàn diện giáo dục và đào tạo để Việt Nam có một nguồn nhân lực vừa có tinh thần khởi nghiệp, vừa có năng lực sáng tạo cà có dũng khí chấp nhận mạo hiểm khi tham gia vào cuộc cách mạng này và ứng dụng nhanh nhất những thành tựu mà cuộc cách mạng số tạo ra để nâng cao đột suất, tạo đột biến cho nền kinh tế.
Đối với ngành năng lượng/năng lượng tái tạo và tăng trưởng xanh - một xu hướng chắc chắn phải có trong Cuộc cách mạng lần thứ tư, ông John Rockhold, Chủ tịch Phòng thương mại và công nghiệp Mỹ tại Việt Nam, Giám đốc điều hành công ty TMCP Tư vấn đầu tư và kỹ thuật ABBO, Trưởng nhóm công tác về năng lượng của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam đã đề xuất một số giải pháp cụ thể cho Việt Nam. Ông đề nghị Chính phủ cân nhắc và sửa đổi lại hành lang pháp lý sao cho những chính sách phải đủ mạnh mẽ để trợ giúp cho ngành năng lượng sạch, đặc biệt là năng lượng tái tạo phát triển, nhằm bổ sung cho những nguồn năng lượng truyền thống. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải phối hợp với các cơ quan của Chính phủ xây dựng những hệ thống sản xuất năng lượng mạnh mẽ hơn, tốt hơn, nhanh hơn, đáp ứng được những cam kết của Việt Nam về thích ứng với biến đổi khí hậu. Ngoài ra cũng cần phải nâng cao nhận thức cho công chúng thông qua những chiến dịch tuyên truyền, giáo dục…
Đại diện Bộ Ngoại Giao đề xuất việc quan trọng cần làm ngay là chúng ta phải chủ động, tích cực đẩy mạnh theo dõi, nghiên cứu sâu chiều hướng phát triển của Công nghiệp 4.0 để xác định rõ những lĩnh vực công nghệ Việt Nam có thể đi thẳng và tranh thủ ngay từ giai đoạn đầu. Cùng với đó, trong bối cảnh kinh tế thế giới đang chuyển nhanh sang thời đại kinh tế tri thức, cần nhìn nhận lại tư duy, cách tiếp cận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xác định tham gia chuỗi giá trị toàn cầu là phương thức quan trọng đế đấy mạnh CNH, HĐH và hội nhập hiệu quả vào kinh tế thế giới.
GS.TS. Nguyễn Trọng Hoài, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế TP.HCM thì đề xuất nghiên cứu một số giải pháp sau nhằm nắm bắt những cơ hội mở ra của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư để định hình tương lai theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng là phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Một số giải pháp như: Thứ nhất, chuyển đổi cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng công nghệ cao, tập trung phát triển các ngành công nghiệp cốt lõi, tạo sự lan tỏa lớn như trí thông minh nhân tạo, người máy,… Thứ hai, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo ở doanh nghiệp, cơ quan nghiên cứu. Chiến lược đổi mới sáng tạo ở tầm quốc gia cần lựa chọn đầu tư có chọn lọc và mạnh mẽ nguồn lưc cả từ nhà nước và xã hội vào một số ngành/lĩnh vực cốt lõi của cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đồng thời tranh thủ sự cộng tác từ quốc tế. Thứ ba, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nhằm xây dựng nguồn nhân lực có kỹ năng và sáng tạo. Nâng cao chất lượng giáo dục đại học theo hướng đào tạo theo yêu cầu của doanh nghiệp, xã hội, gắn lý thuyết với thực hành, đẩy mạnh sự hợp tác giữa trường đại học - doanh nghiệp. Thứ tư, phát triển mạnh mẽ hạ tầng và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông hoàn chỉnh, hiện đại, an toàn bằng nguồn lực của nhà nước cũng như xã hội hóa. Đồng thời, đào tạo nguồn nhân lực về công nghệ thông tin và truyền thông có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của nền công nghiệp thế hệ thứ 4. Thứ năm, hoàn thiện thể chế kinh tế thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Xây dựng hành lang pháp lý chặt chẽ phù hợp với thông lệ quốc tế để tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch, bình đẳng, bảo vệ sở hữu trí tuệ, khuyến khích tinh thần doanh nghiệp.
Việt Dũng