PV: Thời gian vừa qua, đã có một số ngân hàng nước ngoài từ bỏ cuộc chơi. Như ANZ Việt Nam và một số ngân hàng khác cũng đã thoái vốn khỏi các đối tác cùng ngành trong nước. Thưa ông, có thể lý giải động thái trên thế nào, đặc biệt trước đây, các ngân hàng ngoại liên tục đề cập tới việc cho nới room?
PGS.TS. Lâm Chí Dũng: Những hiện tượng kinh tế - kinh doanh vốn rất phức tạp, khó có một câu trả lời dễ dàng nếu không quan sát liên tục và thu thập đầy đủ dữ liệu. Mặt khác, đây cũng là lĩnh vực mà suy luận logic không phải bao giờ cũng đúng. Nó đòi hỏi phải áp dụng các phương pháp thực chứng.
Tuy nhiên, nếu không quá thận trọng, tôi nghĩ có mấy nguyên nhân chính:
Thứ nhất, hoạt động ngân hàng ở Việt nam nói chung vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Rủi ro ở đây được hiểu là sự bất định, tính không chắc chắn, khó dự báo, mức độ khó khăn của việc kiểm soát kết quả chứ không đồng nghĩa với mức sinh lời thấp hoặc tổn thất cao.
Thứ hai, các ngân hàng ngoại dần nhận thấy việc cạnh tranh với các Ngân hàng nội không hề dễ dàng, có thể trái với nhận định ban đầu của họ. Do những hạn chế nội tại của thị trường các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam nên những lợi thế của họ trong việc triển khai các dịch vụ phi tín dụng vẫn chưa phát huy được.
Trong khi đó, đối với lĩnh vực tín dụng, do những đặc điểm hết sức "đặc thù" của thị trường tín dụng ngân hàng ở Việt Nam, họ khó hoặc chưa thể thích ứng. Vậy nên, các NH này khó phát triển thị phần, hạn chế năng lực sinh lời.
Mặt khác, khả năng tiếp cận khối khách hàng nội địa của các NH ngoại cũng không phải là ưu thế. Điều này do nhiều nguyên nhân nhưng đó đã là một thực tế.
Thứ ba, sự xung đột về các chuẩn mực quản trị ngân hàng có lẽ cũng là một nguyên nhân không kém phần quan trọng dẫn đến tình trạng thoái vốn. Dễ nhận thấy hệ thống tài chính Việt Nam còn kém phát triển cả về dung lượng thị trường, về các thiết chế, về công cụ tài chính, về thể chế vận hành...
Tất cả điều này dẫn đến hệ quả là có sự khác biệt lớn trong việc vận dụng các chuẩn mực quản trị ngân hàng giữa chủ sở hữu nước ngoài và Việt Nam.
Thứ tư, một số trường hợp rút lui là nằm trong việc điều chỉnh chiến lược kinh doanh và đầu tư của từng ngân hàng. Điều này thật khó để kết luận dứt khoát đối với người quan sát từ bên ngoài trong điều kiện thiếu dữ liệu để nhận định. Nhưng kể cả như vậy thì những nguyên nhân đã nêu ở trên vẫn có trọng lượng đáng kể trong quyết định giải tư của những NH này.
PV: Đặt trong bối cảnh xử lý nợ xấu chưa tiến triển tích cực, việc cải tổ các tổ chức tín dụng vẫn chưa đạt được kết quả như kỳ vọng, vẫn còn cách điều hành kiểu ''gia đình'' trong các ngân hàng nội... theo ông, động thái trên có liên quan gì với nhau không? Nếu cứ như vậy, sức khỏe hệ thống NHTM nội sẽ thế nào?
PGS.TS. Lâm Chí Dũng: Tôi nghĩ là có liên quan. Tuy nhiên, theo thiển ý, nguyên nhân thứ hai quan trọng hơn.
Nếu vì vấn đề nợ xấu, thì có lẽ việc "rút lui đã diễn ra ở một thời điểm sớm hơn khi hệ thống NH ở vào điểm khó khăn. Ở thời điểm hiện nay, dù việc xử lý nợ xấu vẫn chưa đạt được như kỳ vọng nhưng rõ ràng là tình hình chung đã được cải thiện nhiều.
Do việc cấp tín dụng ở Việt Nam về cơ bản vẫn dựa trên hệ thống bảo đảm bằng tài sản nên cùng với nghị quyết của Quốc hội về xử lý nợ xấu cộng với sự ấm lên của thị trường bất động sản, việc xử lý nợ xấu chắc chắn sẽ có kết quả tích cực hơn.
Nhưng tình trạng điều hành ngân hàng theo kiểu "gia đình" như nhà báo nói sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy từ xấu đến rất xấu. Chẳng hạn, chỉ liệt kê vài điểm chủ yếu như:
Ban đầu là tác động rất tiêu cực đến yêu cầu công khai, minh bạch trong hoạt động ngân hàng đối với các đối tượng hữu quan mà trước hết là đối với đa số cổ đông nhỏ.
Tiếp đến là bóp méo, làm lệch lạc quá trình lấy các quyết định kinh doanh và quản trị nội bộ ngân hàng theo định hướng lợi ích của cá nhân hoặc một nhóm cổ đông có tính gia đình.
Và cuối cùng sẽ gây khó khăn thậm chí vô hiệu hóa việc vận dụng đúng đắn các chuẩn mực quản trị ngân hàng hiện đại.
Trân trọng cảm ơn ông!
Theo báo Đất Việt