Nhân bàn về việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công cách đây không lâu, đã diễn ra cuộc tranh luận sôi nổi: nên hay không nên tính nợ của doanh nghiệp nhà nước vào nợ công với những lập luận thuyết phục của cả hai bên. Tuy nhiên, qua một số sự kiện thời sự nóng hổi như chuyện xử lý 12 dự án thua lỗ của ngành công thương mới thấy vấn đề nằm ở chỗ khác.
Chuyện nợ của doanh nghiệp nhà nước nói chung hay dự án đầu tư có vay tiền bằng sự bảo lãnh của Nhà nước nói riêng được tính hay không tính vào nợ công chưa quan trọng bằng những dự án như thế vay tiền của ai, của ngân hàng trong nước hay vay của nước ngoài.
Hiện nay nợ xấu của hệ thống ngân hàng vẫn đang là điểm nghẽn lớn, tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế và đống nợ xấu này có phần đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước. Nhưng dù sao, do doanh nghiệp nhà nước vay của hệ thống ngân hàng trong nước nên quá trình vay về, làm ăn thua lỗ, không trả được nợ, khoản vay biến thành nợ xấu, ngân hàng lao đao, Nhà nước cho khoanh lại để xử lý cũng diễn ra từ từ, kéo dài trong nhiều năm. Dù nợ xấu đang là gánh nặng của nền kinh tế, tình hình nợ nần của các doanh nghiệp nhà nước vẫn nằm trong tầm kiểm soát hay đúng hơn, trong phạm vi xử lý của các bộ, ngành liên quan.
Ngược lại, nợ của doanh nghiệp nhà nước nếu là khoản vay từ nước ngoài có sự bảo lãnh của Chính phủ thì khi đến hạn, doanh nghiệp phải xoay đủ cách để trả ngay, trả đủ. Đến hạn không trả được, Chính phủ phải đứng ra trả thay. Không thể có chuyện trì hoãn, khoanh nợ, đảo nợ hay lập luận nợ của doanh nghiệp thì doanh nghiệp chịu. Bởi một khi đã là khoản nợ có sự bảo lãnh của Chính phủ, nếu không trả cho phía nước ngoài, ngay lập tức uy tín tín dụng của Nhà nước sẽ bị ảnh hưởng; các hãng xếp hạng tín nhiệm sẽ hạ bậc đánh giá tín nhiệm của cả nước và điều này sẽ tác động ngay lên chi phí vay vốn của cả nền kinh tế.
Ngay cả những khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp nhà nước, mặc dù không có sự bảo lãnh của Chính phủ, khi biến thành nợ xấu Nhà nước cũng phải đứng ra thương lượng để phía nước ngoài chấp nhận một tỷ lệ trả nợ thấp hơn nhưng do Nhà nước đứng ra chịu trách nhiệm chi trả dần chứ không hề có chuyện "khoanh lại để đó" như với chủ nợ trong nước. Quá trình xử lý nợ nước ngoài của các doanh nghiệp như Vinashin đã cho thấy rõ điều đó.
Nợ với trong nước, bằng tiền đồng, có thể trông chờ vào lạm phát làm xói mòn giá trị khoản vay chứ nợ với nước ngoài, bằng ngoại tệ, thì không thể trông mong vào các biện pháp như thế khi tỷ giá hối đoái luôn là mối lo cho các khoản vay của nước ngoài.
Nói như thế để thấy rằng bên cạnh việc xử lý các dự án thua lỗ, cần đến sự nghiêm minh của pháp luật thì cũng cần rà soát lại các dự án đầu tư trong tương lai. Một khi đã kiên quyết với nguyên tắc doanh nghiệp nhà nước chỉ được giao vốn từ ngân sách còn lại phải tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình thì đừng bao giờ dễ dãi đứng ra bảo lãnh cho các khoản vay của họ. Tuyệt đối không thể có chuyện Nhà nước đứng ra phát hành trái phiếu quốc tế rồi về cho doanh nghiệp nhà nước vay lại để phân bổ "làm dự án". Có như thế mới không để xảy ra các Vinashin, Vinalines hay Đạm Ninh Bình mới.
Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn