Ban Kinh tế Trung ương trân trọng giới thiệu một số bài tham luận tại Hội thảo chuyên đề 1: "Phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững vì một Việt Nam thịnh vượng" trong Hội nghị trực tuyến toàn quốc và Triển lãm quốc gia về thành tựu 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Bài 7: Thể chế về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, những vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay
TS. Nguyễn Minh Sơn
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn nhận được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước. Những năm vừa qua, nhiều chính sách đã được ban hành góp phần tạo sự phát triển mạnh mẽ cho khu vực này, đặc biệt là từ khi có Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (gọi tắt là Nghị quyết 26). Sau hơn 20 năm đổi mới, đây là một Nghị quyết rất quan trọng, là một chủ trương lớn của Đảng, thể hiện việc tiếp tục đường lối đổi mới, tập trung giải quyết một số vấn đề quan trọng, cấp thiết của xã hội, nhất là khu vực nông thôn. Nghị quyết 26 chính là sự mở đường, tạo điều kiện cho nông nghiệp, nông thôn được quan tâm đầu tư, phát triển toàn diện với những giải pháp đột phá, tạo điều kiện cho khu vực nông thôn từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong giai đoạn 2008-2018, nhiều luật, nghị quyết của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ và Thông tư của các bộ, ngành đã được ban hành. Hệ thống chính sách, pháp luật được ban hành tương đối đầy đủ, toàn diện trên các lĩnh vực, tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong triển khai thực hiện, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, góp phần thực hiện thành công mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Việc ban hành chính sách, pháp luật nhằm thể chế hóa Nghị quyết 26 trong việc thực hiện các mục tiêu sau: (1) Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; (2) Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển các đô thị; (3) Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là vùng khó khăn; (4) Đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn; (5) Phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn; (6) Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân; (7) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là Hội Nông dân.
1. Về kết quả công tác xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật liên quan tới nông nghiệp, nông dân, nông thôn
1.1. Đối với nhiệm vụ xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn
Đối với thực hiện nhiệm vụ này, tại Nghị quyết 5 năm1 và hàng năm về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Quốc hội luôn dành sự quan tâm, đề ra các giải pháp cơ cấu lại ngành nông nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới gắn với nâng cao đời sống nông dân; cải thiện khả năng cạnh tranh sản phẩm, hàng hóa nông nghiệp, có chính sách phù hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất, phát triển các vùng sản xuất quy mô lớn với hình thức đa dạng, phù hợp với điều kiện của từng vùng; tiếp tục tổ chức lại sản xuất, phát triển nhanh mô hình quản lý, sản xuất theo chuỗi giá trị từng loại cây, con, sản phẩm cụ thể; sản xuất sản phẩm gắn với công nghiệp chế biến, thị trường tiêu thụ. Khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại thông qua phát triển mạnh mẽ hợp tác xã kiểu mới và thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ tại địa bàn nông thôn. Đào tạo nghề với các hình thức đa dạng, phù hợp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn; chuyển dịch lao động sang các ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao.
Về đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia và chính sách bảo đảm lợi ích cho người trồng lúa, địa phương và vùng trồng lúa, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 - 2015) cấp quốc gia2, theo đó, xác định rõ diện tích đất trồng lúa cần bảo vệ, điều tiết phân bổ nguồn lực để bảo đảm lợi ích giữa các địa phương có điều kiện phát triển công nghiệp với các địa phương giữ nhiều đất trồng lúa; tăng đầu tư hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật, xây dựng các cơ sở bảo quản, chế biến, tiêu thụ lúa hàng hoá tại các địa phương giữ nhiều đất trồng lúa; có chính sách, biện pháp phù hợp để giảm chi phí sản xuất, tăng thu nhập, để người trồng lúa yên tâm sản xuất.
Về phương hướng phát triển ngành chăn nuôi và trồng trọt, Quốc hội đã xem xét, thông qua dự án Luật Trồng trọt, Luật Chăn nuôi tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV. Việc ban hành Luật Chăn nuôi nhằm thiết lập khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội, kinh tế, môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, phát triển ngành chăn nuôi phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội. Thúc đẩy phát triển ngành chăn nuôi, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người dân, tạo giá trị kim ngạch xuất khẩu, ứng phó với biến đổi khí hậu. Việc ban hành Luật Trồng trọt nhằm thiết lập khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực trồng trọt, đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả, khả thi để phát triển trồng trọt theo định hướng thị trường; có cơ cấu quản lý, sản xuất, kinh doanh hợp lý; tạo lập được nền sản xuất hàng hoá quy mô lớn, chất lượng và từng bước hiện đại hoá, đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững, đảm bảo an ninh lương thực, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nông dân, thích ứng với biến đổi khí hậu và hội nhập kinh tế quốc tế.
Về phát triển lâm nghiệp, Luật Lâm nghiệp được ban hành năm 2017 đã thể rõ quan điểm phát triển lâm nghiệp theo chuỗi giá trị, khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, quản lý, hiện đại hóa ngành lâm nghiệp từ khâu giống đến khai thác, bảo vệ rừng và chế biến thương mại lâm sản; phát triển mạnh dịch vụ ngoài lâm sản lâm nghiệp, đặc biệt công nghiệp chế biến gỗ, dịch vụ môi trường rừng, du lịch sinh thái…góp phần tăng thu nhập cho người làm nghề rừng và gia tăng giá trị sản phẩm, đáp ứng tốt yêu cầu xuất khẩu.
Trong lĩnh vực thủy sản, Luật Thủy sản được Quốc hội thông qua năm 2017 đã thể hiện rõ định hướng phát triển thủy sản theo hướng hiện đại, phát triển đánh bắt xa bờ; phát triển mạnh dịch vụ hậu cần nghề cá, thu mua, bảo quản, chế biến thủy sản; đầu tư xây dựng các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung, kiểm soát tốt an toàn dịch bệnh, bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm phục vụ xuất khẩu.
Năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 899/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Đề án đã đề ra nhiều mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp quan trọng trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp nhằm bảo đảm phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống cho cư dân nông thôn, trong đó, đề ra giải pháp quan trọng về cải cách thể chế và sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật như chính sách hỗ trợ và tạo động lực cho sản xuất nông nghiệp, chính sách đất đai, chính sách thương mại, chính sách tiền tệ và tài chính.
1.2. Về nhiệm vụ xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển các đô thị
Đối với nhiệm vụ đầu tư các công trình thủy lợi, nâng cao năng lực tưới tiêu chủ động cho các loại cây trồng; củng cố, xây dựng hệ thống đê sông, đê biển, hệ thống ngăn lũ, thoát lũ; nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, tìm kiếm cứu nạn; chủ động triển khai một bước các công trình giảm thiểu tác hại của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, Quốc hội đã ban hành Luật Phòng, chống thiên tai năm 2013, Luật Thủy lợi năm 2017 theo hướng xã hội hóa trong quản lý, đầu tư xây dựng công trình, đề cao trách nhiệm của Nhà nước bảo đảm đầu tư xây dựng công trình quan trọng, thiết yếu phục vụ sản xuất nông nghiệp và phục vụ dân sinh.
Về phát triển giao thông nông thôn, Luật Giao thông đường bộ được ban hành năm 2008 góp phần phát triển giao thông ở các vùng khó khăn để có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội nhanh hơn; đầu tư xây dựng hệ thống đường đến các vùng trung du, miền núi và ven biển để phát triển công nghiệp và đô thị, nâng cao chất lượng đường nông thôn. Việc phát triển đồng bộ hệ thống lưới điện đã được thể hiện rõ tại Luật Điện lực, qua đó góp phần bảo đảm đủ điện phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; nâng cao chất lượng điện phục vụ sinh hoạt của dân cư nông thôn.
Xây dựng nông thôn mới là một nhiệm vụ trọng tâm được Nghị quyết Trung ương 7 khóa X đề ra, với mục tiêu xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại. Để cụ thể hóa mục tiêu này, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Bộ tiêu chí với 19 tiêu chí là bước đi đầu tiên có tính đột phá, định hình được mô hình nông thôn mới bằng những chỉ tiêu cụ thể, hài hòa trên các lĩnh vực và vùng miền, là cơ sở để xây dựng nội dung Chương trình MTQG về xây dựng nông thôn mới. Quốc hội đã giám sát việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (giai đoạn 2010-2015) gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp và đã ban hành Nghị quyết về nội dung này3. Kết quả giám sát đã giúp hoàn thiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới bảo đảm phù hợp hơn với thực tế thực hiện, phát triển nông thôn bền vững, giải quyết dứt điểm nợ đọng xây dựng cơ bản; chú trọng đẩy mạnh sản xuất, đổi mới cơ cấu sản xuất, gắn kết chặt chẽ với quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp, tạo chuyển biến thực sự về chất trong sản xuất và cải thiện thu nhập, đời sống của người dân nông thôn.
1.3. Về nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là vùng khó khăn
Ngay sau khi Nghị quyết 26-NQ/TW được ban hành, ngày 27/12/2008, Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo (Chương trình 30a) đã được Chính phủ phê duyệt (Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP). Sau đó, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 293/QĐ-TTg (05/02/2013), về việc cho 23 huyện khác, nằm ngoài chương trình thực hiện Nghị quyết 30a, nhưng điều kiện kinh tế - xã hội của các huyện này cũng rất khó khăn, tỷ lệ nghèo cao, có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, được hưởng cơ chế hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng bằng 70% của huyện trong chương trình 30a. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 về định hướng giảm nghèo bền vững đến năm 2020, một số chính sách đã được duy trì thực hiện theo Nghị quyết 80/NQ-CP như các chính sách hỗ trợ giảm nghèo chung và các chính sách hỗ trợ giảm nghèo đặc thù. Bên cạnh đó, ngày 8/10/2012, Chính phủ đã xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 – 2015 và tiếp đó là Chương trình mục tiêu quốc giảm nghèo giai đoạn 2016-2020.
Về nhiệm vụ giảm nghèo, các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm và hàng năm đều xác định chỉ tiêu giảm nghèo và định hướng một số chính sách, giải pháp tổ chức thực hiện, cùng với khoảng 20 văn bản luật quy định chế độ, chính sách liên quan đến người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn như ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng, bố trí ngân sách, các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, y tế, giáo dục, dạy nghề và nhà ở4… Đặc biệt, từ năm 2016, khi chuyển sang chu kỳ giảm nghèo 6 (2016 – 2020), để đẩy mạnh mục tiêu giảm nghèo bền vững, Quốc hội đã định hướng chính sách, tạo cơ sở để Chính phủ nghiên cứu, xây dựng, ban hành chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều nhằm xác định nguyên nhân trực tiếp của đói nghèo trên từng hộ gia đình, tăng cơ hội tiếp cận chính sách và khuyến khích sự tích cực, chủ động tham gia của người nghèo; có chính sách hỗ trợ phù hợp đối với hộ mới thoát nghèo, hộ cận nghèo; tăng nguồn lực đầu tư, ưu tiên tập trung đầu tư cho địa bàn nghèo nhất, đối tượng khó khăn nhất. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, điều hành; tích hợp lồng ghép chính sách giữa 2 Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới; cân đối nguồn lực theo trung hạn; phân cấp mạnh hơn cho địa phương, trao thêm quyền cho người nghèo và cộng đồng.
Về giải quyết việc làm, Luật Việc làm năm 2013 đã thể chế hóa các chính sách ưu tiên thúc đẩy việc làm đối với lao động trong khu vực phi chính thức bao gồm lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn, lao động tự do… nhằm tăng cường tính bền vững đối với việc làm ở nhóm đối tượng và các khu vực này thông qua các chính sách hỗ trợ tạo việc làm, tín dụng ưu đãi tạo việc làm, chính sách hỗ trợ chuyển dịch việc làm cho người lao động khu vực nông thôn; chính sách việc làm công; các chính sách hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, tư vấn, định hướng nghề nghiệp và giới thiệu việc làm miễn phí; đào tạo nghề gắn với tạo việc làm, hỗ trợ lập nghiệp, khởi sự doanh nghiệp; kỹ năng nghề; hoạt động dịch vụ việc làm.
Về nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu và khám chữa bệnh, thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế: Quán triệt đường lối chỉ đạo "đầu tư cho y tế là đầu tư cho phát triển", các chính sách y tế được ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung giai đoạn này5 đã tập trung thực hiện mục tiêu giải quyết các vấn đề về y tế, dân số vì mục tiêu phát triển con người; nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở, y tế dự phòng, các bệnh viện đa khoa tuyến huyện, các trung tâm y tế vùng, các cơ sở y tế chuyên sâu; thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ cao vào hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân; tạo nền tảng pháp lý cho việc thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; có chính sách hỗ trợ cần thiết đối với người nghèo và các đối tượng khó khăn, bảo đảm để mọi người dân có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng; bình đẳng giữa y tế nhà nước và y tế tư nhân, thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực y tế.
Đặc biệt, Nghị quyết số 68/2013/QH13 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế năm 2014 đã tiếp tục thúc đẩy nhanh hơn lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân, đảm bảo mục tiêu hơn 80% người dân tham gia vào năm 2020 thông qua các chính sách: bảo hiểm y tế bắt buộc; chính sách khuyến khích hộ gia đình tham gia; chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với các nhóm đối tượng học sinh, sinh viên, đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo, cận nghèo, đối tượng thuộc diện bảo trợ xã hội... thay đổi mức cùng chi trả; bổ sung quyền lợi; tạo cơ hội tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân thông qua việc điều chỉnh tuyến chữa bệnh thuận lợi hơn.
Về lĩnh vực văn hóa, giáo dục, Quốc hội đã ban hành nhiều luật, pháp lệnh có liên quan6, trên cơ sở đó, Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đã xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện. Những đạo luật này cùng hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo hành lang pháp lý cơ bản, thuận lợi cho phát triển giáo dục và đào tạo nói chung, trong đó có giáo dục và đào tạo khu vực nông thôn, miền núi. Công tác quản lý, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đã được quan tâm đẩy mạnh; đời sống tinh thần của người dân nói chung, đặc biệt là dân cư khu vực nông thôn, miền núi từng bước được cải thiện, nâng cao.
Đối với các chính sách ưu đãi về thuế, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 28/2016/QH14 ngày 11/11/2016 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 55/2010/QH12 về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp. Theo đó, đã bổ sung đối tượng miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp nhằm thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới theo hướng hiện đại hóa; giảm bớt khó khăn, giảm chi phí đầu vào, chi phí cho người dân sản xuất nông nghiệp, chi phí quản lý hành chính, khuyến khích đầu tư, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển.
1.4. Đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn
Đối với nhiệm vụ phát triển hợp tác xã, Quốc hội đã ban hành Luật Hợp tác xã năm 2012. Luật Hợp tác xã đã thể hiện rõ hơn bản chất của hợp tác xã là được thành lập trên cơ sở tự nguyện, hợp tác, bình đẳng, đồng sở hữu, tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên hợp tác xã, nhằm mang lại lợi ích cho thành viên thông qua đáp ứng nhu cầu chung của thành viên về kinh tế, xã hội và văn hóa. Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định như Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 quy định chi tiết một số điều của Luật HTX năm 2012; Nghị định số 107/2017/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 193/2013/NĐ-CP; Chỉ thị số 19/CT-TTg ngày 24/7/2015 triển khai thi hành Luật HTX 2012; Quyết định số 23/2017/QĐ-TTg ngày 22/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 246/QĐ-TTg về việc thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX và ban hành Quy chế hoạt động bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển HTX.
Quốc hội cũng đã ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, tạo môi trường thuận lợi để hình thành và phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp nông thôn, nhất là các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, sử dụng nguyên liệu và thu hút nhiều lao động nông nghiệp tại chỗ, doanh nghiệp dịch vụ vật tư, tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản cho nông dân. Luật Đầu tư năm 2014 được ban hành đã xác định địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn là địa bàn ưu đãi đầu tư và khẳng định Nhà nước hỗ trợ một phần vốn đầu tư phát triển từ ngân sách và vốn tín dụng ưu đãi để phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong và ngoài hàng rào khu công nghiệp tại địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn hoặc địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Nghị quyết số 32/2016/QH14 ngày 23/11/2016 về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện Chương trình MTQGXDNTM gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp cũng đặt ra chỉ tiêu phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đến năm 2020 gắn với yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã.
1.5. Về phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn
Về nhiệm vụ phát triển nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn: khoa học và công nghệ luôn được xác định là yếu tố then chốt, là "chìa khóa" cho nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa, đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao luôn là định hướng ưu tiên trong phát triển nông nghiệp. Luật Khoa học và Công nghệ được ban hành năm 2013 bên cạnh những quy định chung cho hoạt động khoa học và công nghệ đã dành nhiều điều, khoản quy định về phát triển công nghệ cao trong nông nghiệp, ưu đãi thuế cho doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Luật Chuyển giao công nghệ năm 2016 cũng dành một mục riêng (Mục 4. Chương IV) quy định chuyển giao công nghệ, tiến bộ kỹ thuật cho vùng nông thôn như: quy định chính sách khuyến khích chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về giống, sản phẩm, quy trình sản xuất, giải pháp kỹ thuật, giải pháp quản lý trong nông nghiệp; bảo tồn và phát triển nguồn gen; chọn tạo, giống cây trồng, giống vật nuôi có giá trị kinh tế cao để chuyển giao vào sản xuất.
Đồng thời, trong các luật chuyên ngành về nông nghiệp như: Luật Thủy lợi, Luật Phòng, chống thiên tai, Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật, Luật Thú y, Luật Lâm nghiệp, Luật Thủy sản... đều có chương, mục hay điều khoản riêng quy định về nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế; về đầu tư nghiên cứu, áp dụng khoa học và công nghệ, đào tạo nhân lực, chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất để thúc đẩy nhanh việc đưa kết quả nghiên cứu, công nghệ mới để phát triển nhanh ngành kinh tế có lực lượng lao động tham gia lớn nhất ở Việt Nam.
Quốc hội giám sát tối cao 04 chuyên đề có liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn7, sau các cuộc giám sát này, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết giao Chính phủ khẩn trương thực hiện các nhiệm vụ giải pháp để khắc phục những tồn tại yếu kém trong tổ chức quản lý. Đồng thời sửa đổi, ban hành các luật có liên quan, trong đó nhiều luật đã được ban hành như: Luật An toàn thực phẩm (2009), Luật Bảo vệ môi trường (2014), Luật Lâm nghiệp (2017). Năm 2014, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng thực hiện giám sát chuyên đề việc thực hiện chính sách, pháp luật ứng phó với biến đổi khí hậu đồng bằng sông Cửu Long, là địa bàn trọng điểm về lúa, thủy sản, cây ăn trái của cả nước.
Các luật và nghị quyết được ban hành luôn xác định chú trọng nghiên cứu, đầu tư cho khoa học - công nghệ để nông nghiệp sớm đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực; xây dựng các chính sách đãi ngộ thỏa đáng để khai thác, phát huy tốt các nguồn lực khoa học - công nghệ, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ.
Đối với nhóm chính sách phát triển nghiên cứu, ứng dụng KHCN trong nông nghiệp, Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định số 107/2008/QĐ-TTg và Quyết định số 01/2012/QĐ-TTg ngày 4/1/2012 (thay thế quyết định số 107/2008/QĐ-TTg) về một số chính sách hỗ trợ việc áp dụng Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; Quyết định số 11/2006/QĐ-TTg phê duyệt "Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020". Việc phát triển nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp cũng được lồng ghép trong các chính sách hỗ trợ khác như Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg; Quyết định số 63/2010/QĐ-TTg, sau đó được thay thế bởi Quyết định số 65/2011/QĐ-TTg và Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp.
Về chính sách cho đào tạo nghề, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 (sau đó được bổ sung sửa đổi trong Quyết định số 971/QĐ-TTg) về phê duyệt đề án "Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020". Đào tạo nghề cho lao động nông thôn cũng được đưa vào là nội dung thành phần trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ, với mục tiêu là đào tạo nghề cho 5,5 triệu lao động nông thôn.
1.6. Về đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân
Nhiệm vụ mà Nghị quyết 26 đặt ra là sửa đổi Luật Đất đai; rà soát, điều chỉnh cơ cấu đầu tư ngân sách, tăng đầu tư phát triển cho khu vực nông nghiệp, nông thôn; tăng mạnh đầu tư ngân sách nhà nước và đảm bảo 5 năm sau cao gấp 2 lần 5 năm trước. Tiếp tục thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; có biện pháp bảo vệ thị trường nội địa, phát triển thị trường xuất khẩu nông sản phù hợp với luật pháp quốc tế.
Về nội dung này, Quốc hội đã thực hiện giám sát tối cao chuyên đề "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn" (năm 2012). Kết quả giám sát đã cung cấp nhiều tư liệu quan trọng làm cơ sở cho việc sửa đổi Luật Đất đai một cách toàn diện và ban hành Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công theo hướng minh bạch, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Luật Đất đai năm 2013 đã được ban hành theo đúng tinh thần Nghị quyết 26 và khắc phục những tồn tại, vướng mắc đã được phát hiện qua giám sát. Luật tiếp tục khẳng định đất đai là sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch, kế hoạch để sử dụng có hiệu quả; mở rộng hạn mức sử dụng đất, thúc đẩy quá trình tích tụ đất đai; chính sách định giá đất bảo đảm hài hòa quyền lợi của người sử dụng đất, của nhà đầu tư và của Nhà nước trong quá trình thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Có cơ chế khuyến khích những tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thành lập công ty, vào các dự án đầu tư, kinh doanh. Có chính sách giải quyết tốt vấn đề đất ở, nhà ở, việc làm cho người bị thu hồi đất; có quy hoạch và cơ chế bảo vệ vững chắc đất trồng lúa.
Về nguồn lực dành cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 100/2015/QH13 ngày 12/11/2015 phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020, theo đó, quyết định dành nguồn lực lớn cho Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới8 và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững9. Bên cạnh đó, còn xác định trong quá trình điều hành, Chính phủ tiếp tục cân đối ngân sách trung ương để có thể hỗ trợ thêm cho Chương trình và có giải pháp huy động hợp lý mọi nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước để thực hiện. Quốc hội cũng đã ban hành Nghị quyết số 26/2016/QH14 về kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 kịp thời bố trí vốn cho các nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn10.
Về chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, ngày 4/6/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 61/2010/NĐ-CP về thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Nghị định này nhằm cụ thể hóa chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp khi có dự án đầu tư vào nông nghiệp nông thôn như đất đai, đào tạo, khoa học công nghệ, khả năng tham gia và tiếp cận thị trường (sau đó được thay thế bằng Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 và Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018). Việc thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn cũng được lồng ghép trong các chính sách như Nghị định số 41/2010/NĐ-CP (được thay thế bởi Nghị định số 55/2015/NĐ-CP) nhằm khơi thông nguồn vốn, cho phép khách hàng nông nghiệp nông thôn tiếp cận nguồn vốn vay dễ dàng hơn theo cơ chế ưu đãi. Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg miễn tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất để doanh nghiệp thực hiện các dự án xây dựng nhà máy chế biến, kho chứa, nhà ở cho công nhân, nhà công vụ phục vụ cho dự án cánh đồng lớn. Quyết định số 63/2010/QĐ-TTg (được thay thế bởi Quyết định số 65/2011/QĐ-TTg và Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg) về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp.
Với mục tiêu tập trung cải thiện các chỉ số môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp nói chung, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 19/NQ-CP năm 2014 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia do Chính phủ ban hành và Nghị quyết số 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020.
Về chính sách về tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn, Chính phủ đã có chủ trương hỗ trợ, thúc đẩy dòng vốn tín dụng vào nông nghiệp nông thôn với Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2010. Điều này tiếp tục được khẳng định trong Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 "Về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội". Nghị quyết này đưa ra yêu cầu kiểm soát cung tín dụng đối với cả nền kinh tế nhưng tín dụng cho nông nghiệp nông thôn vẫn được đặc biệt ưu tiên. Tiếp theo đó, hàng loạt chính sách, chương trình ưu đãi tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn tiếp tục đươc ban hành như Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, Nghị định số 210/2013/NĐ-CP về thu hút đầu tư vào nông nghiệp nông thôn; Chương trình thí điểm cho vay theo chuỗi giá trị (theo Quyết định số 1050/QĐ-NHNN), Chương trình cho vay nuôi trồng thủy sản (theo văn bản số 1149/TTg-KTN), Chương trình cho vay hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch (theo Quyết định số 68/2013/QĐ-CP), Chương trình cho vay tái canh cây cà phê (theo Văn bản số 3227/NHNN-TD), Chương trình tín dụng cho vay đánh bắt xa bờ (theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP và 89/2015/NĐ-CP)…
1.7. Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là Hội Nông dân
Quốc hội đã ban hành một số luật về tổ chức bộ máy11, trong đó, quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước ở Trung ương về chăm lo phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Bên cạnh đó, Quốc hội đã ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, theo đó, xác định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn.
2. Một số vấn đề đặt ra
Mặc dù tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế giảm dần nhưng vai trò của nông nghiệp vẫn rất quan trọng, nông nghiệp vẫn là thế mạnh của nước ta cần tiếp tục được phát huy; phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân nông thôn vẫn là nhiệm vụ chiến lược trong xây dựng và phát triển đất nước thời gian tới.
Thành tựu trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn thời gian qua là rất tích cực và đáng ghi nhận, tuy nhiên, cần nhận diện một số vấn đề đặt ra để có định hướng xây dựng thể chế có tính thích ứng cao cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong tình hình mới.
2.1. Về tình hình giai đoạn tới tác động đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn
(1) Xu hướng hội nhập đang được mở rộng, thúc đẩy thương mại và đầu tư thông qua việc dỡ bỏ các rào cản. Thực hiện cam kết tự do hóa thương mại, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Hội nhập sẽ giúp các nông nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường, tăng kim ngạch xuất khẩu và thu hút dòng vốn FDI. Theo dự báo thì nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng nông sản trên thế giới trong giai đoạn tới tiếp tục tăng lên. Tuy nhiên, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng đặt ra các tiêu chuẩn rất cao về thương mại và đầu tư, buộc các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh khốc liệt với các đối thủ cạnh tranh có thế mạnh vượt trội về vốn, trình độ khoa học công nghệ, khả năng quản lý và khả năng tiếp cận thị trường. Hội nhập cũng làm cho nông sản Việt Nam chịu áp lực gia tăng cạnh tranh tại thị trường thế giới và thị trường nông sản trong nước.
(2) Biến đối khí hậu tác động ngày càng mạnh mẽ, làm ảnh hưởng trực tiếp tới nông nghiệp, nông thôn và đời sống người nông dân; đe dọa giảm năng suất cây trồng, biến động trên thị trường nông sản quốc tế.
Các thách thức đang hiện hữu và ngày càng gia tăng mức độ ảnh hưởng đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn như suy giảm các nguồn tài nguyên, ô nhiễm môi trường, lún sụt và sạt lở bờ sông ở nhiều vùng sản xuất (đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu Long). Trong khi đó, năng lực chống chịu và thích ứng điều kiện mới và rủi ro của người nông dân ở khu vực nông thôn còn hạn chế và dễ bị tổn thương.
(3) Công nghiệp hóa và đô thị hóa tiếp tục phát triển, đòi hỏi thêm không gian, lương thực và nước sạch và cạnh tranh các nguồn lực tự nhiên, đặc biệt là đất và nước vốn đang dành cho sản xuất nông nghiệp. Dự báo tăng trưởng dân số đô thị sẽ đạt khoảng 30 triệu dân trước năm 2050, tỷ lệ đô thị hóa được sẽ tăng lên 34% vào năm 2020 và đạt 40 - 50% truớc năm 2050. Các quá trình này thúc đẩy cạnh tranh các tài nguyên tự nhiên, sức ép môi trường (ô nhiễm môi trường, tăng phát thải khí nhà kính, tăng chất thải rắn và nước thải), và tăng áp lực khai thác tài nguyên đang trên đà bị cạn kiệt.
2.2. Về một số vấn đề đặt ra trong việc xây dựng thể chế cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Công tác xây dựng chính sách, pháp luật về nông nghiệp, nông dân, nông thôn được triển khai tích cực, tạo hành lang pháp lý và môi trường chính sách thuận lợi hơn, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tiếp tục được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hơn, tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc cho ngành, doanh nghiệp và nông dân nên có tác động tích cực tới chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của dân cư nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Tuy nhiên, nông nghiệp, nông dân, nông thôn có phạm vi rất rộng, việc xây dựng các thể chế chính sách, pháp luật để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, đáp ứng yêu cầu thực tiễn còn nhiều khó khăn. Mặc dù thời gian qua, rất nhiều chính sách đã được ban hành trên các lĩnh vực của nông nghiệp, nông thôn, tuy nhiên, qua quá trình thực hiện cho thấy vẫn còn hạn chế trong các chính sách như thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế hợp tác, chính sách về phát triển nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, chính sách đào tạo nghề, chính sách tín dụng, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn...
3. Một số kiến nghị
Thực tế qua 10 năm thực hiện Nghị quyết 26 cho thấy, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; đã có những chuyển biến thực sự tích cực trong nhận thức, hành động. Thể chế chính sách, pháp luật được xây dựng ngày càng hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn trong tình hình mới. Thời gian tới, đứng trước những thách thức ngày càng lớn của yêu cầu đổi mới sản xuất, nâng cao chất lượng sản xuất nông nghiệp, tiêu thụ sản phẩm, tăng sức cạnh tranh, cần tiếp tục quán triệt sâu rộng, tổ chức thực hiện hiệu quả một số nội dung sau:
(1) Tiếp tục bám sát Kết luận của Bộ Chính trị về sơ kết Nghị quyết 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại để sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai cho phù hợp. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; huy động nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, nông thôn; chủ động hội nhập và hợp tác quốc tế.
(2) Nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành các luật, pháp lệnh, các Nghị quyết của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Nghị định của Chính phủ, Thông tư của các bộ, ngành. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật hiện hành để bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn, bảo đảm việc thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tiếp tục quan tâm lồng ghép một cách thực chất, có hiệu quả các vấn đề về chuyển dịch lao động gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới trong các dự án luật, các nghị quyết có liên quan.
(3) Việc xây dựng chính sách, pháp luật cần hướng đến hỗ trợ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, xây dựng nền nông nghiệp hữu cơ theo hướng bền vững; coi khoa học công nghệ là động lực cho tăng trưởng; có chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ các nhà khoa học trong lĩnh vực công nghệ cao; tăng cường đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao KHCN trong nông nghiệp. Nghiên cứu phát triển cơ giới hóa trong canh tác, công nghệ chế biến sau thu hoạch nhằm nâng cao năng suất và tăng giá trị gia tăng trên sản phẩm.
(4) Ưu tiên nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, nhất là vùng miền núi, biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, khu vực đặc biệt khó khăn; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, tập trung cải thiện đời sống, đảm bảo an sinh xã hội cho nông dân khu vực nông thôn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, khoảng cách về mức sống, điều kiện tiếp cận dịch vụ công giữa nông dân vùng nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu số với các vùng, địa bàn thuận lợi. Nâng cao vai trò hợp tác xã trong chuỗi giá trị trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
(5) Trong quá trình xây dựng dự thảo chính sách, pháp luật và đánh giá tác động có liên quan đến phát triển, xây dựng nông thôn và nông dân, các cơ quan chủ trì cần tạo điều kiện và tăng cường công tác phối hợp với Hội Nông dân Việt Nam ở từng cấp để tham gia đối với những nội dung trực tiếp tác động đến vai trò của Hội Nông dân, nhất là ở cơ sở.
(6) Tiếp tục nghiên cứu có đột phá về thể chế trong tổ chức mô hình, phương thức sản xuất quy mô lớn ở những vùng có điều kiện, thế mạnh để khắc phục tình trạng manh mún trong sản xuất nông nghiệp, khắc phục các bất cập mà sản xuất nông nghiệp quy mô hộ gia đình không giải quyết được, đồng thời hướng đến một nền sản xuất hàng hóa nông nghiệp chuyên nghiệp, bền vững.
(7) Chú trọng tổ chức các hoạt động giám sát, khảo sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về nông nghiệp, nông dân, nông thôn để có kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật kịp thời. Tăng cường giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách đối với người nghèo, người cận nghèo; lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân khu vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Lựa chọn một số nội dung quan trọng để thực hiện giám sát chuyên sâu như quản lý, sử dụng đất đai, ứng dụng khoa học công nghệ, các mô hình liên kết...
1 Nghị quyết số 142/2016/QH13 ngày 12/04/2016 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020; Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 08/11/2016 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.
2 Nghị quyết số 17/2011/QH13 ngày 22/11/2011 về Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 - 2015) cấp quốc gia. Nghị quyết số 134/2016/QH13 ngày 9/4/2016 về điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016-2020) cấp quốc gia.
3 Nghị quyết số 32/2016/QH14 ngày 23/11/2016 về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện Chương trình MTQGXDNTM gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp.
4 Luật Bảo hiểm y tế, Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Dạy nghề, Luật Việc làm, Luật Ngân sách, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, Nghị quyết về miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp…
5 Bao gồm: Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số; Luật Bảo hiểm y tế năm 2008; Nghị quyết số 18/2008/QH12 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật xã hội hóa để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân; Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009; Nghị quyết số 68/2013/QH13 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế năm 2014; Luật Dược năm 2016.
6 Về lĩnh vực giáo dục: Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục năm 2009, Nghị quyết của Quốc hội về đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2009-2010 đến năm học 2014-2015 (NQ 35/2009/QH13), Luật Giáo dục đại học năm 2012, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, Nghị quyết số 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông.
Trên lĩnh vực phát triển văn hóa, Quốc hội đã ban hành một số luật như Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất bản năm 2008, Luật Xuất bản (sửa đổi) năm 2012, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh năm 2009, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009; Luật Quảng cáo năm 2012; Luật Báo chí (sửa đổi) năm 2016 và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.
7 gồm: (1) Giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật về an toàn thực phẩm (2008); (2) Giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về trồng mới 5 triệu ha rừng (2011); (3) Giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề; (4) Giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật về an toàn thực phẩm giai đoạn 2011- 2016.
8 Tổng mức vốn thực hiện từ ngân sách nhà nước tối thiểu là 193.155,6 tỷ đồng, trong đó: ngân sách trung ương: 63.155,6 tỷ đồng; ngân sách địa phương: 130.000 tỷ đồng.
9 Tổng mức vốn thực hiện từ ngân sách nhà nước tối thiểu là 46.161 tỷ đồng, trong đó: ngân sách trung ương: 41.449 tỷ đồng; ngân sách địa phương: 4.712 tỷ đồng.
10 Bố trí 72.817 tỷ đồng vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020 để thực hiện 02 Chương trình mục tiêu quốc gia.
11 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.