CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
THE FOURTH INDUSTRIAL REVOLUTION AND
POLCY IMPLEMENTATIONS FOR THE DEVELOPMENT OF VIETNAM'S GARMENT SECTOR
TS. Trương Văn Cẩm
Dr. Truong Van Cam
Hiệp hội Dệt May Việt Nam
Vietnam Textile and Apparel Association
Tóm tắt:
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và sẽ tác động sâu, rộng và mạnh mẽ, toàn diện lên mọi mặt của đời sống con người, từ hoạt động sản xuất đến lối sống, sinh hoạt ở tất cả các cấp độ, từ phạm vi toàn cầu đến khu vực, quốc gia và từng tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, công nghiệp 4.0 dự báo cũng đặt ra nhiều vấn đề cho các ngành sản xuất, trong đó ngành dệt may Việt Nam.
Tham luận đã phân tích và kiến nghị nhiều giải pháp để phát triển ngành Dệt may như: (i) đối với các doanh nghiệp; (ii) với các cơ quan quản lý nhà nước, trong đó nhấn mạnh vai trò của Chính phủ kiến tạo./.
Abstract:
The Fourth Industrial Revolution has been exerting the deep, powerful and comprehensive impact on all aspects of human life, from production to lifestyle, at all levels, from globe to regions, from nations to organizations and individuals. However, FIR 4.0 is predicted to pose many challengesfor Vietnam's manufacturing industry, including textile and garment industry
The paper focuses on the analysis and rcommendations forsolutions to develop the textile sector with respect to the following stakeholders(i) the enterprise; (ii) the state authorities, which emphasizes the role of government as the founder. /.
1. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Lịch sử thế giới đã chứng kiến nhiều cuộc cách mạng công nghiệp tạo ra sự thay đổi đột biến và triệt để, tác động sâu sắc đến hệ thống kinh tế và kết cấu xã hội, đến mọi mặt của đời sống vật chất, tinh thần của người dân.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất được bắt đầu từ cuối thế kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 19, đánh dấu kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại – kỷ nguyên sử dụng động cơ hơi nước để cơ giới hóa các ngành sản xuất. Cuộc cách mạng lần thứ hai, bắt đầu khoảng năm 1850 đến đầu thế kỷ 20, sử dụng điện năng và động cơ đốt trong để tạo ra sản xuất quy mô lớn. Cách mạng công nghiệp lần thứ ba, từ đầu thập niên 1970 đến cuối thế kỷ 20, được gọi là cuộc cách mạng máy tính hay cách mạng số vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990).
Từ đầu thế kỷ 21, thế giới bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (công nghiệp 4.0) với sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin và Internet. Công nghiệp 4.0 hình thành trên nền tảng của cách mạng số, với những công nghệ mới như in 3D, robot, trí tuệ nhân tạo, Internet kết nối vạn vật (IoT), công nghệ nano, công nghệ sinh học, vật liệu mới, năng lượng tái tạo… Bằng cách kích hoạt các "nhà máy thông minh" công nghiệp 4.0 tạo ra một thế giới mà trong đó các hệ thống ảo và vật lý của chuỗi sản xuất trên toàn cầu có thể hợp tác với nhau một cách linh hoạt (Cyber Physical Systems).
Theo Giáo sư Klaus Schwab, người sáng lập và Chủ tịch điều hành Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển với tốc độ bùng nổ, không có tiền lệ lịch sử. Nếu so sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây công nghiệp 4.0 phát triển với hàm số mũ chứ không phải là tốc độ tuyến tính. Cuộc cách mạng này cũng tác động sâu, rộng và mạnh mẽ, toàn diện lên mọi mặt của đời sống con người, từ hoạt động sản xuất đến lối sống, sinh hoạt ở tất cả các cấp độ, từ phạm vi toàn cầu đến khu vực, quốc gia và từng tổ chức, cá nhân. Ví dụ: đối với doanh nghiệp (DN), hệ thống sản xuất, bán hàng có khả năng thay đổi sản phẩm nhanh chóng trên cơ sở các thiết bị tùy chỉnh. Sử dụng IoT và các công nghệ khác để số hóa toàn bộ quy trình sản xuất, phân phối, rút ngắn thời gian đưa sản phẩm ra thị trường. Dùng robot bán tự động làm việc bên cạnh con người để tăng NSLĐ, đảm bảo chất lượng, giảm thiểu tai nạn lao động, hoặc tránh độc hại, thay thế các công việc lặp đi lặp lại, nhàm chán, yêu cầu kỹ năng thấp. Các chi phí logistic, thông tin liên lạc sẽ giảm. Vì thế, khả năng cạnh tranh của DN sẽ được nâng cao nhờ tăng năng suất và giảm chi phí.
Đối với người dân, công nghiệp 4.0 tạo ra các lợi thế hết sức to lớn. Đó là nâng cao mức thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống, các sản phẩm và dịch vụ được tạo ra với chi phí thấp, đơn giản hóa việc thực hiện nhu cầu cuộc sống như gọi taxi, đặt vé máy bay, mua một sản phẩm, thực hiện thanh toán, xem phim, nghe nhạc, đọc sách… chỉ với 1 điện thoại thông minh hoặc một máy tính bảng được kết nối internet.
Đối với chính phủ, công nghiệp 4.0 ngày càng tạo điều kiện cho người dân tham gia cùng chính phủ, nói lên ý kiến của mình. Ngược lại, chính phủ có thể sử dụng công nghệ mới để tăng quyền kiểm soát công chúng, cải tiến hệ thống quản lý xã hội, cải thiện tốc độ ra quyết định và tốc độ phản ứng với các sự kiện của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, công nghiệp 4.0 dự báo cũng đặt ra nhiều vấn đề cho các ngành sản xuất. Đó là nguy cơ mất việc làm cao đối với một số ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giầy. Một báo cáo mới đây của ILO (7/7/2016) dự báo máy móc công nghệ 4.0 có thể thay thế 65% lao động dệt may, da giày của Indonesia, 86% của Việt Nam, 88% của Campuchia trong vài thập kỷ tới. Tình trạng bất bình đẳng giữa các nhóm lao động có trình độ và có thu nhập cao với nhóm lao động trình độ thấp và thu nhập thấp, có thể làm gia tăng căng thẳng về việc làm và thu nhập trong xã hội. Các nước công nghiệp phát triển kỳ vọng có cơ hội đưa sản xuất dệt may về lại nước mình để giảm chi phí vận chuyển và áp lực tăng giá gia công…
2. Thực trạng ngành dệt may Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với chính sách phát triển trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư
2.1. Thực trạng ngành dệt may Việt Nam
Ngành dệt may Việt Nam trong thời gian qua đã tận dụng tốt cơ hội của quá trình hội nhập kinh tế. Đặc biệt, việc kết hợp giữa cơ hội của quá trình hội nhập với cơ hội "dân số vàng" là điều kiện hết sức quan trọng giúp dệt may Việt Nam cất cánh. Từ một ngành sản xuất chủ yếu phục vụ tiêu dùng trong nước và một phần xuất khẩu sang các nước Đông Âu (năm 1990 kim ngạch xuất khẩu (KNXK) của dệt may Việt Nam mới đạt 55 triệu USD), đến năm 2015 KNXK đã đạt 27 tỷ USD.
Quá trình phát triển của Việt Nam có thể chia ra các giai đoạn như sau:
Năm | Kim ngạch xuất khẩu |
1990 – 1995 (trước khi mở cửa) | 1990: 55 triệu USD 1995: 964 triệu USD |
1996 – 2001 (Hoa kỳ bình thường hóa quan hệ, dỡ bỏ cấp vận, Việt Nam là thành viên ASEAN) | 1996: 1,15 tỷ USD 2001: 1,96 tỷ USD |
2002 – 2007 (ký HĐTM Việt – Mỹ, Việt Nam hưởng quy chế tối hệ quốc MFN, EU áp dụng thuế GSP) | 2002: 2,75 tỷ USD 2007: 7,8 tỷ USD |
2008 – 2015 (VN là thành viên WTO, Hoa kỳ, EU dỡ bỏ hạn ngạch, VN ký hàng loạt FTAs) | 2008: 9,1 tỷ USD 2015: 27 tỷ USD (chiếm 16,8% tổng KNXK, thuộc top 5 thế giới) |
Hiện nay, Việt Nam đã kết thúc đàm phán FTA với EU, ngày 05/5/2015 ký Hiệp định Thương mại với Hàn Quốc, ngày 19/5/2015 ký FTA với Liên minh kinh tế Á - Âu và ngày 04/02/2016 đã ký Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương TPP. Các Hiệp định này được cho là cú hích tiếp theo để dệt may Việt Nam tăng tốc phát triển trong thời gian tới do: (i) Thuế suất hàng dệt may VN xuất khẩu vào TPP, EU, Hàn Quốc (3 thị trường này đã chiếm tới gần 90% KNXK hàng may mặc năm 2015) sẽ giảm dần về 0%. (ii) Quy định xuất xứ chủ đạo từ sợi trở đi của TPP và từ vải trở đi của VEFTA tạo sức hút đầu tư vào các công đoạn sợi, dệt, nhuộm, hiện đang là khâu yếu và là cơ hội để cơ cấu lại ngành. (iii) Giúp Việt Nam giải quyết việc làm, thực hiện chủ trương CNH nền kinh tế, chuyển đổi cơ cấu từ khu vực không chính thức sang khu vực chính thức. (iv) Đặc biệt TPP và các FTAs thúc đẩy cải cách thể chế, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng hơn, minh bạch hơn.
Tuy nhiên, đan xen với cơ hội là những thách thức không nhỏ như: (i) Cạnh tranh sẽ quyết liệt hơn, không chỉ thị trường hàng hóa mà cả ở thị trường lao động. Các DN dệt may Việt Nam đang tham gia vào phân đoạn có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi cung ứng toàn cầu, nếu không có sự thay đổi sẽ rơi vào bẫy sản xuất với giá trị gia tăng thấp. (ii) Nguồn cung sợi, vải, phụ liệu hiện nay chủ yếu từ các nước bên ngoài TPP (Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan). Nhưng đầu tư vào các công đoạn này sẽ gặp khó khăn do nhu cầu vốn rất lớn, công nghệ phức tạp. (iii) Các DN đầu tư nước ngoài có nhiều lợi thế về vốn, công nghệ, thị trường hiện đã chiếm tới 65% KNXK toàn ngành và ngày càng lấn lướt DN trong nước. (iv) Tham gia TPP Việt Nam phải tuân thủ các cam kết về tiêu chuẩn lao động của ILO và Kế hoạch đẩy mạnh quan hệ Thương mại và Lao động được ký giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. (v) Việt Nam đang có lợi thế về cơ cấu dân số nhưng chất lượng nguồn nhân lực lại thấp, tỷ lệ lao động qua đào tạo bài bản chỉ chiếm 20%, trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao cho khâu dệt nhuộm thiếu trầm trọng…
2.2. Những vấn đề đặt ra đối với chính sách phát triển ngành dệt may trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư
(1) Nhận thức về công nghiệp 4.0
- Cần có nhận thức đúng về tính tất yếu phát triển công nghiệp 4.0 với tốc độ cao, tác động sâu, rộng đến toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị của xã hội loài người, đến doanh nghiệp, chính phủ và người dân.
- Ứng dụng công nghệ 4.0 đương nhiên sẽ có tác động đến việc làm, thu nhập của bộ phận không nhỏ người lao động. Tuy nhiên, cần tiếp nhận và xử lý các thông tin cảnh báo một cách đúng mức, có nghiên cứu, phân tích để tránh nóng vội, ví dụ: liệu có đến 86% NLĐ trong ngành dệt may, da giày tại Việt Nam thời gian tới sẽ có nguy cơ mất việc như cảnh báo của ILO? Theo tác giả, đối với ngành dệt may, một ngành có tính thời trang cao, có nhiều công đoạn sản xuất, Công nghệ 4.0 khó có thể đồng loạt thay thế lao động tay chân của con người trong thời gian ngắn, nhất là công đoạn may.
- Có kế hoạch và chương trình từng bước chuyển đổi cơ cấu lao động giữa các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, thủy sản, dịch vụ, giữa các ngành nghề cùng lĩnh vực. Có chính sách đào tạo phù hợp cho từng trình độ từ cao đến thấp để đáp ứng yêu cầu công nghiệp 4.0 và các loại hình sản xuất với trình độ công nghệ thấp hơn, chính sách đào tạo biết nhiều nghề.
(2) Nhận diện những tác động của công nghiệp 4.0 đối với ngành dệt may:
Tác động tích cực có thể nhận thấy là: (i) Công nghiệp 4.0 tạo cơ hội thay thế công việc lặp đi lặp lại không cần kỹ năng, kinh nghiệm, công việc độc hại, dễ gây tai nạn… bằng máy móc công nghệ mới. (ii) Phát triển công nghiệp 4.0 giúp giải quyết những khâu yếu trong chuỗi cung ứng dệt may của Việt Nam, tái cơ cấu lại ngành. (iii) Áp dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho NLĐ. (iv) Nguy cơ đưa sản xuất về lại nước nhập khẩu tạo ra sức ép để tập trung vào khai thác và phục vụ thị trường nội địa trên 90 triệu dân với thu nhập và nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng của Việt Nam. (iv) Tạo sức ép để đào tạo nâng cao trình độ kỹ năng cho người lao động.
Tuy nhiên, mặt trái của công nghiệp 4.0 đối với ngành dệt may là:
- Làm gia tăng nguy cơ mất việc làm đối với lao động dệt may, đặc biệt lao động có trình độ thấp và ở những công đoạn dễ thay thế bằng máy móc, song mức độ tác động ở mỗi công đoạn sản xuất dệt may khác nhau cũng khác nhau. Ví dụ trong một thập niên tới có thể dự báo: Sản xuất xơ, sợi hóa học có khả năng thay thế cao (40-50%); Các công đoạn sản xuất tơ, sợi tự nhiên, các công đoạn dệt, đặc biệt vải không dệt và khâu nhuộm, hoàn tất khả năng thay thế lao động con người bằng máy móc khá cao (30 – 40%); Công đoạn may, nhìn chung khả năng thay thế ở mức độ trung bình thấp (<30%), do có tính thời trang cao, nhu cầu phong phú, đa dạng về kiểu dáng, màu sắc, thị hiếu vùng miền (tuy nhiên một số khâu như trải vải, cắt, giác sơ đồ… hiện tại đã có một số DN trang bị máy móc với trình độ tự động hóa cao); Sản xuất phụ liệu may (cúc, chỉ, nhãn, khóa kéo) có nguy cơ thay thế khá cao (30-40%).
- Đối mặt với nguy cơ chuyển dần sản xuất quay lại các nước, như Mỹ, EU, Nhật, Hàn Quốc, có trình độ khoa học kỹ thuật phát triển và chiếm tới gần 90% tổng KNXK hàng may mặc của Việt Nam.
- Tạo ra sự chênh lệch lớn về trình độ và thu nhập của NLĐ trong DN, trong ngành và giữa các ngành nghề với nhau.
3. Khuyến nghị giải pháp
3.1. Doanh nghiệp phải làm gì
- Cần có nhận thức đúng, tìm hiểu kỹ về công nghiệp 4.0 và tác động của nó đến ngành dệt may bằng cái nhìn thực tế, khách quan phù hợp với đặc điểm của một ngành sản xuất hàng hóa theo xu hướng thời trang, thị hiếu, thời tiết, vùng miền, tôn giáo, sản phẩm nhiều đẳng cấp với giá cả hợp lý. Công nghiệp 4.0 là công cụ giúp hiện thực hóa những nhu cầu này của con người một cách hiệu quả nhất và cũng chỉ ở những công đoạn nhất định.
- Xác định các công việc trong dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp có thể tự động hóa theo phương châm "không tự động hóa bằng mọi giá" để vừa áp dụng tiến bộ kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động vừa quan tâm sử dụng nguồn lao động dồi dào của Việt Nam.
- Chuẩn bị nguồn lực (con người, vốn, công nghệ) để có thể từng bước hiện đại hóa các khâu đã lựa chọn.
- Liên kết với đối tác, khách hàng để nắm bắt xu hướng, nhu cầu đối với các loại sản phẩm, có nguy cơ di chuyển sản xuất về lại thị trường đang tiêu thụ.
- Tập trung đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu số hóa một số khâu trong dây chuyền sản xuất.
- Nâng cao trình độ cán bộ quản lý kỹ thuật, công nghệ, xây dựng thương hiệu, áp dụng công nghệ in 3D trong thiết kế thời trang đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đơn lẻ của khách hàng.
- Tập trung khai thác hiệu quả năng lực sản xuất hiện có (cả các DN trong nước và FDI) để tăng tích lũy, chuẩn bị nguồn lực cho đổi mới công nghệ. Chuyển dần từng bước sang xu hướng khai thác thị trường nội địa.
3.2. Khuyến nghị giải pháp vĩ mô
- Tăng cường ứng dụng CNTT trong đổi mới thể chế pháp luật, cải cách thủ tục hành chính giúp DN dệt may tăng năng lực cạnh tranh để tích lũy nguồn lực đầu tư công nghệ mới theo xu hướng của cánh mạng công nghiệp lần thứ tư.
- Thực hiện Chính phủ kiến tạo tạo điều kiện SXKD thông thoáng để các DN, trong đó có DN dệt may, phát huy hiệu quả năng lực sản xuất hiện có và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Các cơ quan quản lý Nhà nước nâng cao trình độ quản lý và tốc độ ra quyết định.
- Có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực có khả năng từng bước nắm vững công nghệ thông tin, an ninh mạng và những công nghệ đột phá như: trí tuệ nhân tạo, robot, internet kết nối mọi thứ (IoT), công nghệ in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học…
- Xây dựng và chuẩn bị nguồn lực, đồng thời triển khai với tiến độ phù hợp Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dựa trên nền sản xuất với công nghệ hiện đại, thay vì nhân công giá rẻ.
- Dự báo khả năng phát triển ngành dệt may Việt Nam còn kéo dài bao lâu và mức độ mất việc làm của người lao động trong thời gian tới để xây dựng kế hoạch sử dụng lao động có thể bị thay thế chuyển sang các ngành Việt Nam có thế mạnh như nông nghiệp, thủy sản, du lịch, công nghệ thông tin…