Bước vào năm 2021, trước sự bùng phát mạnh và phức tạp của biến thể Delta, kinh tế thế giới vẫn tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Ở trong nước, đợt bùng phát dịch COVID-19 lần thứ 4 ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình kinh tế-xã hội (KTXH). Tuy nhiên, với sự chỉ đạo quyết liệt, bám sát tình hình thực tiễn, quan điểm điều hành rõ ràng, dứt khoát, thống nhất, đồng bộ, tập trung, xuyên suốt, kịp thời phát huy cao nhất hiệu quả nguồn lực của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, niềm tin và hy vọng đại dịch COVID-19 tạm được kiểm soát, số ca mắc và tử vong giảm nhanh, kinh tế sớm phục hồi trong thời gian tới ngày càng gia tăng như chỉ đạo của Tổng Bí thư. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tạo điều kiện tốt nhất thúc đẩy tiến độ đầu tư, giải ngân vốn đầu tư công.
Ngay từ đầu năm, thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về phát triển kinh tế-xã hội, dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) và phân bổ ngân sách trung ương (NSTW) năm 2021, Chính phủ đã khẩn trương ban hành các Nghị quyết số 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH và dự toán NSNN năm 2021 với 08 trọng tâm chỉ đạo điều hành và 11 nhiệm vụ, giải pháp triển khai thực hiện, trong đó đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công là nhiệm vụ, giải pháp then chốt nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; Nghị quyết số 45/NQ-CP ngày 16/4/2021 triển khai một số công việc sau khi được kiện toàn, trong đó đã xác định nhiệm vụ thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công là một trong 8 nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung chỉ đạo điều hành, qua đó yêu cầu người đứng đầu các bộ, cơ quan, địa phương chịu trách nhiệm trực tiếp, toàn diện về việc thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công theo kế hoạch, trong đó tập trung đầu tư các công trình kết cầu hạ tầng trọng điểm theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Nghị quyết số 63/NQ-CP về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải ngân vốn đầu tư công và xuất khẩu bền vững những tháng cuối năm 2021 và đầu năm 2022[1]; Công điện số 1082/CĐ-TTg ngày 16/8/2021, theo đó tiếp tục nhấn mạnh việc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp hiện nay, 14 nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết để thực hiện "mục tiêu kép" vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phục hồi và phát triển, với yêu cầu các bộ ngành và địa phương cần xác định việc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm của năm 2021, gắn với bảo đảm chất lưọng công trình và hiệu quả sử dụng vốn.
Bám sát chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương quyết liệt thực hiện các giải pháp về đẩy mạnh giải ngân, gắn với nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn đầu tư công ngay từ đầu năm; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, gắn trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị với kết quả giải ngân,... nhờ đó tình hình giải ngân vốn đầu tư công 8 tháng đầu năm 2021 đã đạt được một số kết quả đáng chú ý như sau:
Tình hình giải ngân vốn đầu tư công 8 tháng đầu năm 2021
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dự kiến giải ngân vốn đầu tư công đến 31/8/2021 là 187.283,01 tỷ đồng, đạt 40,6% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, giảm so với cùng kỳ năm 2020 (46,41%), trong đó vốn trong nước đạt 44,7% (cùng kỳ năm 2020 là 50,02%), vốn nước ngoài đạt 7,94% (cùng kỳ năm 2020 đạt 21,26%). Nếu không tính những khoản vốn chưa được phân bổ, giao kế hoạch và giải ngân theo quy định của Luật Đầu tư công và Nghị quyết số 129/2020/QH14 của Quốc hội về phân bổ NSTW năm 2021 như đã nêu ở trên, tỷ lệ giải ngân đạt 46,9%, tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước.
Hình: Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công dự kiến 8 tháng đầu năm 2021, %
Nguồn: Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Có 10 bộ và 33 địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt trên mức trung bình của cả nước (40,6%), trong đó, một số bộ, địa phương có tỷ lệ giải ngân cao như: Quảng Ninh, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Bình Phước, TP. Hải Phòng, Thái Bình, Hà Nam, Thanh Hóa,...
Đối với công tác giải ngân các dự án quan trọng quốc gia, dự án đầu tư xây dựng một số đoạn Đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc-Nam phía Đông tỷ lệ giải ngân đến hết ngày 27/8/2021 đạt 51,9% kế hoạch; dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Cảng Hàng không quốc tế Long Thành đạt 46,81% kế hoạch đã giao, trong đó kế hoạch năm 2021 đạt 18,11%. Như vậy, có thể thấy tỷ lệ giải ngân của các dự án này hiện vẫn ở mức thấp.
Có thể nói, những kết quả đạt được là nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của Đảng và Nhà nước; sự chỉ đạo quyết liệt, nắm chắc tình hình của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các bộ, ngành, địa phương; sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan; sự ủng hộ của doanh nghiệp, người dân trong việc thực hiện các chính sách của Đảng, Nhà nước; sự kế thừa và phát huy kinh nghiệm có được thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, nhất là kế hoạch đầu tư công năm 2020.
Bên cạnh các kết quả nêu trên, giải ngân vốn đầu tư công năm 2021 còn một số tồn tại, hạn chế, trong đó có những hạn chế đã kéo dài trong nhiều năm nhưng chậm được khắc phục:
- Tiến độ giải ngân vốn đầu tư công 8 tháng đầu năm 2021 chậm, chưa đạt yêu cầu đề ra, nhất là đối với vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài. Đây là khó khăn rất lớn đối với kế hoạch năm 2021 vì theo quy định của Luật Đầu tư công năm 2019, thời gian giải ngân kế hoạch là 01 năm. Một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương giải ngân rất thấp như: Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (0,25%), Bộ Thông tin và Truyền thông (0,4%), Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (0,56%), Đài Truyền hình Việt Nam (1,17%), Thông Tấn xã Việt Nam (1,19%),...; đặc biệt 04 bộ, cơ quan trung ương chưa giải ngân kế hoạch vốn: Uỷ ban Dân tộc, Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam, Liên hiệp các hiệp hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam.
- Chất lượng lập kế hoạch và công tác chuẩn bị dự án đầu tư công ở một số nơi còn nhiều bất cập, mang tính hình thức dẫn đến nhiều dự án vẫn chưa thể triển khai thi công, giải ngân theo kế hoạch được giao:
+ Chuẩn bị thủ tục cần thiết đề giao kế hoạch đầu tư vốn NSNN năm 2021 cho các dự án tại một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương сòn thiếu chủ động, nhiều dự án chuyển tiếp đã quá thời gian quy định nhưng các bộ, cơ quan trung ương và địa phương chưa báo cáo сấр có thẩm quyền cho phép kéo dài thời gian bố trí vốn, gia hạn hiệp định, thực hiện thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư, bố trí vốn cho dự án chưa hoàn thành thủ tục gia hạn thời gian giải ngân, đang trong quá trình đàm phán hoặc chưa ký hiệp định vay đã được bố trí vốn[2].
+ Chuẩn bị đầu tư dự án còn sơ sài, chất lượng kém, phê duyệt dự án chưa bảo đảm đầy đủ các quy định hiện hành, vẫn còn tình trạng một số dự án chuẩn bị đầu tư và phê duyệt dự án chỉ mang tính hình thức để có điều kiện ghi vốn. Khi dự án đã được quyết định đầu tư và triển khai thực hiện mới phát sinh nhiều vấn đề, không phù hợp với thực địa thi công dẫn đến phải điều chỉnh dự án, nhất là đối với các dự án sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài[3].
+ Đền bù giải phóng mặt bằng đang là nút thắt lớn đối với việc triển khai thực hiện dự án (bao gồm dự án sử dụng vốn trong nước và dự án sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài), vướng mắc về đơn giá, hệ số điều chỉnh giá đất, phương án đền bù, khó khăn trong di dời các công trình tiện ích, chồng lấn trong mặt bằng thi công,...
Đồng thời, 9 nguyên nhân khách quan và chủ quan của hạn chế, bất cập cũng đã được nhận diện, cụ thể như:
- Nguyên nhân khách quan: (i) Nguyên nhân lớn nhất do dịch bệnh COVID-19 diễn biến hết sức phức tạp, xuất hiện nhiều biến thể mới với tốc độ lây lan nhanh, trải rộng trên hầu hết các tỉnh, thành phố, việc khống chế khó khăn hơn nhiều so với năm 2020, nhiều địa phương phải thực hiện giãn cách xã hội trong thời gian dài để phòng, chống đại dịch, làm ảnh hưởng lớn đến các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư công nói riêng. Công tác triển khai phòng, chống dịch bệnh tại một số địa phương còn thiếu thống nhất, đồng bộ làm ảnh hưởng đến việc lưu thông hàng hóa, nguyên vật liệu xây dựng, chậm tiến độ triển khai dự án. Hầu hết các công trình xây dựng phải tạm dừng thi công tại khu vực có mức nguy cơ rất cao (vùng đỏ) và các địa phương thực hiện Chỉ thị số 15/CT-TTg và 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Giá cả vật liệu xây dựng trên thị trường tăng mạnh, nhất là sắt, thép xây dựng, xi măng, cát, sỏi,... tác động trực tiếp đến chi phí của doanh nghiệp, nhà thầu xây dựng, ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ thi công dự án; (ii) So với các dự án sử dụng vốn trong nước, các dự án sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài còn chịu tác động nặng nề hơn do hầu hết các hoạt động đều gắn với yếu tố nuóc ngoài từ khâu nhập máy móc, thiết bị cho đến huy động chuyên gia, nhân công, nhà thầu nước ngoài, tư vấn giảm sát, thống nhất với nhà tài trợ đối với từng hoạt động và kế hoạch của dự án,... (iii) Bên cạnh đó, năm 2021 là năm đầu tiên triển khai kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, nhiều nhiệm vụ, dự án khởi công mới chưa được các bộ, cơ quan trung ương và địa phương giao kế hoạch chi tiết do phải chờ kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 được thông qua theo quy định tại Nghị quyết 129/2020/QH14 của Quốc hội, đồng thời năm 2021 cũng là năm tổ chức nhiều sự kiện trọng đại của đất nước và kiện toàn tổ chức bộ máy chính quyền các cấp cũng tác động đến công tác chỉ đạo điều hành ở một số nơi; (iv) Đối với vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài vướng mắc trong khâu đấu thầu, chưa phê duyệt hợp đồng, chưa thống nhất với nhà tài trợ về phạm vi các gói thầu hoặc tính khả thi của nguồn vốn, vướng mắc trong thực hiện hợp đồng tư vấn nên chưa thể triển khai[4].
- Nguyên nhân chủ quan: (i) Một số quy định pháp luật còn chưa đồng bộ, thống nhất, khả thi, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Một số bất cập trong cơ chế, chính sách tuy đã được phát hiện nhưng còn chậm sửa đổi, bổ sung. Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, giữa trung ương và địa phương trong việc xử lý vướng mắc đầu tư công chưa hiệu quả, nhiều vướng mắc tồn tại từ lâu nhưng vẫn chưa có giải pháp căn cơ xử lý dứt điểm như công tác giải phóng mặt bằng; (ii) Ý thức chấp hành pháp luật, ý thức tôn trọng kỷ luật, kỷ cương trong đầu tư công chưa cao, chưa chủ động, nghiêm túc trong tuân thủ các quy định, tiêu chí, nguyên tắc trong đầu tư công, chuẩn bị thủ tục cần thiết để giao kế hoạch đầu tư vốn NSNN năm 2021 cho các dự án; một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương phân bổ vốn chưa bám sát nguyên tắc, tiêu chí quy định tại Luật Đầu tư công, Nghị quyết của Quốc hội và Quyết định số 2185/QĐ-TTg ngày 21/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ dẫn đến phải điều chỉnh phương án phân bổ; (iii) Năng lực trong triển khai thực hiện còn yếu, chưa quyết liệt, chưa hiệu quả; vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu chưa được thể hiện rõ; phân bổ vốn đầu tư công còn bình quân, thiếu trọng tâm, trọng điểm; chưa sâu sát, thiếu đôn đốc, kiểm tra; trách nhiệm trong phối hợp xử lý công việc và tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách còn chưa chặt chẽ, còn tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm; buông lỏng quản lý dẫn tới tình trạng "trên nóng, dưới lạnh", cùng một mặt bằng pháp luật nhưng có nơi làm tốt, có nơi chưa. Năng lực lập kế hoạch, tổ chức triển khai thực hiện còn nhiều bất cập, nhất là năng lực về thẩm định, kiểm tra, giám sát, thi công,... dẫn tới tình trạng nhiều dự án chậm tiến độ, chậm giải ngân, chậm quyết toán,... (iv) Đối với công tác giải ngân vốn, các cấp, các ngành chưa thực sự vào cuộc, vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu chưa được đề cao, chưa rõ nét; công tác tuyên truyền đến người dân về chính sách bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng còn chưa đầy đủ, thiếu minh bạch, thiếu công bằng; một số chủ đầu tư chưa tích cực thực hiện các thủ tục thanh toán, quyết toán; năng lực chuyên môn của một số cán bộ quản lý dự án, tư vấn giám sát, nhà thầu,... còn nhiều bất cập, không đáp ứng được yêu cầu; công tác đôn đốc nhà thầu triển khai thi công chưa quyết liệt và hiệu quả; (v) Riêng nguồn vốn ODA, việc giải ngân chậm do nhiều dự án phải thực hiện điều chỉnh hiệp định vay, mặc dù dự án đã có khối lượng hoàn thành nhưng không thể giải ngân; có trường hợp dù thay đổi thời gian thực hiện dự án nhưng quy trình điều chỉnh phải thực hiện như quy trình quyết dịnh chủ trương đầu tư dự án mới khiến thủ tục mất nhiều thời gian; công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị dự án còn tồn tại bất cập, dẫn tới tính sẵn sàng của dự án thấp; một số dự án không dược bố trí vốn đối ứng đầy đủ, kịp thời gây ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ, giải ngân vốn nước ngoài; một số dự án chậm ký kết các thỏa thuận vay lại, chậm đưa dự án vào kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm, chưa sát với tiến độ thực hiện và nhu cầu của các dự án; nhiều dự án gặp vướng mắc về thủ tục kiểm soát chi, giải ngân, rút vốn; vẫn còn tình trạng hồ sơ rút vốn sai, thiếu thủ tục, thời gian xử lý hồ sơ kéo dài; việc chuyền nguồn, hạch toán ghi thu, ghi chi, tạm ứng còn chậm, ảnh hưởng đến công tác tổng hợp, phê duyệt đơn rút vốn,...
Dự báo và một số giải pháp đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công trong những tháng cuối năm 2021
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết niên độ NSNN năm 2021 (31/01/2022) các bộ, cơ quan trung ương và địa phương phấn đấu giải ngân vốn NSTW trong nước đạt khoảng 83-85% tổng vốn kế hoạch năm 2021; dự kiến chuyển khoảng hơn 80.000 tỷ đồng vốn NSTW trong nước sang năm 2022 để tiếp tục thực hiện. Riêng đối với vốn nước ngoài, dự kiến đến hết niên độ ngân sách năm 2021 giải ngân tối đa khoảng 58% kế hoạch, số vốn còn lại không giải ngân được sẽ huỷ dự toán, giảm bội chi NSNN năm 2021 hoặc tạo dư địa huy dộng nguồn cho phòng, chống dịch.
Với quyết tâm phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất nhiệm vụ về giải ngân vốn đầu tư công, bên cạnh những giải pháp đã được Chính phủ đề ra tại Nghị quyết số 63/NQ-CP, kiến nghị bổ sung một số giải pháp đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công những tháng cuối năm 2021, cụ thể như:
- Khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều có liên quan đến quy hoạch cho phù hợp với quy định của Luật Quy hoạch; tập trung triển khai công tác lập quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 2021-2030 và lập kế hoạch sử dụng đất các cấp theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 22/CT-TTg ngày 11/8/2021.
- Thực hiện nghiêm Luật Đầu tư công, đẩy nhanh và nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư các dự án. Cần xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm, có vai trò tiên quyết, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư công, đẩy nhanh tiến độ và hạn chế vướng mắc trong quá trình thực hiện, chủ động bố trí một phần vốn trong kế hoạch đầu tư công năm 2021 để chuẩn bị đầu tư cho các dự án dự kiến thực hiện trong giai đoạn 2021-2025, trong đó ưu tiên dự án khởi công của năm 2022. Kiên quyết điều chuyển nguồn vốn của của các bộ, cơ quan, địa phương có tỷ lệ giải ngân dưới 60% kế hoạch vốn NSTW được giao từ đầu năm tính đến 30/9/2021 cho các bộ, cơ quan, địa phương khác có nhu cầu bổ sung vốn thực hiện các dự án quan trọng, cấp bách cần đẩy nhanh tiến độ theo quy định tại Nghị quyết số 63/NQ-CP.
- Rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thúc đẩy thực hiện dự án đầu tư tại các bộ, ngành và địa phương. Xem xét, trao quyền mạnh mẽ hơn cho địa phương trong phê duyệt, chủ động triển khai các dự án đầu tư. Nghiên cứu, áp dụng một số quy định tạm thời về rút ngắn trình tự, thủ tục và ủy quyền, phân cấp trong giai đoạn chống dịch. Xây dựng Đề án thí điểm về tách giải phóng mặt bằng, tái định cư ra khỏi dự án đầu tư, dự án đầu tư công chỉ được phê duyệt sau khi đã có mặt bằng sạch để đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án./.
________________
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo số 5876/BC-BKHĐT ngày 01/9/2021 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình, kết quả thưc hiện kế hoạch đầu tư công năm 2021 và dự kiến kế hoạch đầu tư công năm 2022.
2. Công điện số 1082/CĐ-TTg ngày 16/8/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2021.
3. Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán NSNN năm 2021.
4. Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 10/3/2021 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 02 năm 2021.
5. Nghị quyết số 45/NQ-CP ngày 16/4/2021 của Chính phủ về Phiên họp triển khai công việc của Chính phủ sau khi được kiện toàn tại Kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIV
6. Nghị quyết số 48/NQ-CP ngày 06/5/2021 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4 năm 2021.
7. Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 08/6/2021 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5 năm 2021.
8. Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 29/6/2021 của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải ngân vốn đầu tư công và xuất khẩu bền vững những tháng cuối năm 2021 và đầu năm 2022.
9. Nghị quyết số 88/NQ-CP ngày 12/8/2021 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ trực tuyến toàn quốc với các địa phương về tình hình kinh tế-xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2021.
[1] Chính phủ đã tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc về đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, phát triển xuất khẩu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2021 trong tháng 6/2021, trên cơ sở đó đã ban hành nghị quyết này.
[2] Như Dự án của Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Dự án Trung tâm vũ trụ (khoản vay 2), Dự án xây dựng tuyến đường sắt đô thị thành phố Hà Nội số 2, đoạn Nam Thăng Long-Trần Hưng Đạo của Thành phố Hà Nội vay vốn JICA,…
[3] Theo báo cáo của Bộ Tài chính tại văn bản số 8141/BTC-QLN ngày 23/7/2021, trong 6 tháng đầu năm 2021, có 33 dự án thực hiện điều chỉnh chủ trương đầu tư hoặc điều chỉnh hiệp định vay, trong đó bộ, cơ quan trung ương là 12 dự án, địa phương là 21 dự án.
[4] Như dự án Xây dựng trường Đại học Quốc gia Hà Nội ngang tầm khu vực vay vốn Hàn Quốc, dự án nối giao thông các tỉnh miền núi phía Bắc vay vốn ADB, dự án Tăng cường kết nối giao thông khu vục Tây Nguyên vay vốn WB,…
Tác giả: Nguyễn Quang Huy, Ban Kinh tế Trung ương