Năm 1986, trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Trường Chinh sớm nhận rõ được xu thế của thời đại, thực trạng của đất nước, nguyện vọng của nhân dân, cùng Trung ương Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, nhất là tư duy về kinh tế. Đại hội VI đã trở thành đại hội đổi mới, đánh dấu mốc son trong lịch sử cách mạng Việt Nam, một bước ngoặt trong tư duy lý luận của Đảng ta.
Theo đồng chí Trường Chinh, đổi mới ở Việt Nam phải bắt nguồn từ những yếu tố trong nước có quan hệ đến các yếu tố của thời đại. Đổi mới phải phát huy những thành quả to lớn mà cách mạng đã giành được, sửa chữa khuyết điểm, sai lầm, phát hiện xử lý những vấn đề mới phát sinh, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, giữ vững độc lập, chủ quyền, từng bước vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đồng chí Trường Chinh với Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
Để đổi mới, theo ông, mọi chiến lược phát triển kinh tế, xã hội đúng đắn trong tình thế đất nước đang lâm vào cuộc khủng hoảng phải là những chiến lược có khả năng tạo thế ổn định và phát triển ở trong nước, thúc đẩy và lôi cuốn nguồn lực ở bên ngoài nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi.
Triết lý sâu sắc trong tư duy đổi mới của đồng chí Trường Chinh là tư tưởng giải phóng: đổi mới để giải phóng mọi tiềm năng, phát triển lực lượng sản xuất vì mục đích phục vụ con người, phát triển con người. Tư duy đổi mới xuyên suốt của ông là đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển xã hội, xem việc giải quyết vấn đề con người là thước đo tất cả.
Đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế là một cống hiến xuất sắc về mặt quan điểm lý luận của đồng chí Trường Chinh, góp phần hình thành đường lối đổi mới của Đảng ta tại Đại hội VI.
Đổi mới tư duy kinh tế phải nhằm mục tiêu gắn phát triển lực lượng sản xuất với đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, coi đó là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục suốt thời kỳ quá độ với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Như vậy, ông đặt vấn đề đổi mới tư duy kinh tế ở tầm chiến lược, ở cấp độ phương pháp luận chứ không phải là vấn đề ngẫu nhiên, thoáng qua trong tư duy lý luận. Đã nhiều lần ông nhấn mạnh: đổi mới tư duy, đặc biệt là, hoặc nhất là tư duy kinh tế. Điều đó không chỉ có nghĩa là kinh tế có vị trí hàng đầu, có tác dụng quyết định mà bởi đặc thù của nước ta là tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, do đó kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt, nếu không muốn nói là quan trọng bậc nhất.
Nhưng, đổi mới tư duy kinh tế bắt đầu từ đâu và đổi mới như thế nào? Ông nhận thấy mô hình kinh tế mà ta xác lập là mô hình kinh tế hiện vật, phủ nhận sản xuất hàng hóa, phủ nhận kinh tế thị trường, quy luật giá trị, là mô hình kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Mô hình như thế nào thì đẻ ra cơ chế quản lý như thế ấy. Một cơ chế tập trung và kế hoạch hóa bị tuyệt đối hóa sinh ra chủ nghĩa quan liêu trong bộ máy nhà nước và trong các tổ chức kinh tế, nền sản xuất xã hội, hoạt động kinh tế cứng nhắc, thụ động, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế không ngừng giảm sút. Mô hình tập trung quan liêu, hành chính, mệnh lệnh cùng với cơ chế bao cấp và bình quân tạo ra nhiều kẽ hở, gia tăng tình trạng lãng phí, nạn tham nhũng, đặc quyền đặc lợi, bào mòn tài sản vật chất của xã hội, làm biến dạng các quan hệ xã hội, làm gay gắt thêm tình trạng bất bình đẳng, sự suy thoái cả kinh tế lẫn xã hội.
Trong thời chiến, mô hình đó, cơ chế đó có tác dụng huy động được tiềm lực vật chất và tinh thần để dốc sức phục vụ chiến tranh. Nhưng khi chiến tranh đã kết thúc, hòa bình được lập lại, chúng ta vẫn tiếp tục duy trì cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp kéo dài đúng một thập kỷ, vẫn thi hành chế độ bao cấp thời chiến, thực hiện cấp phát và giao nộp, hiện vật hóa phân phối, bù lỗ qua ngân sách. Chúng ta không nuôi nổi mình, hằng năm phải rút gần một nửa số tiền cho vay của nước ngoài để chi cho tiêu dùng, giống như nước đổ vào thùng không đáy. Chúng ta đã ăn cả vào C1, C2 3[2]. Ông nhấn mạnh: “Kết quả là sức sản xuất bị kìm hãm, không phát triển được; nhân dân lao động không phát huy được quyền làm chủ của mình trên thực tế; người ăn thì nhiều, người làm thì ít; năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng giảm sút; xã hội không có hoặc có rất ít sản phẩm, lưu thông ách tắc do tình trạng chia cắt thị trường, khiến cho nền kinh tế lâm vào tình trạng khó khăn kéo dài, lạm phát triền miên, giá cả không ổn định, đời sống bấp bênh, các giá trị đạo đức, tinh thần bị xói mòn, tiêu cực phát triển” 41[3].
Xóa bỏ một tập quán, một thói quen đã rất khó. Xóa bỏ một mô hình cũ, một cơ chế cũ càng khó hơn. Nhưng, với một lập trường nguyên tắc, với thái độ kiên trì, suốt từ Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, lần thứ bảy, rồi đến lần thứ tám (khóa V) và mãi về sau, cho đến Đại hội VI, đồng chí trước sau như một, kiên quyết bãi bỏ mô hình kinh tế hiện vật và cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, đồng chí đề xuất: nền kinh tế nước ta hiện nay đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý năng động có khả năng bãi bỏ tập trung quan liêu, bảo thủ, trì trệ và bao cấp tràn lan, thực hiện đúng đắn tập trung dân chủ 5[4]. Nghị quyết Trung ương 6 có tầm quan trọng trong việc đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta.
Đến Hội nghị Trung ương lần thứ bảy từ ngày 10 -17/12/1984, với thái độ kiên quyết, một lần nữa đồng chí nhấn mạnh: để tạo ra chuyển biến tích cực, chuẩn bị tốt Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, điều quan trọng nhất hiện nay là phải kiên quyết nhanh chóng bãi bỏ chế độ tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển toàn bộ nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa7[5].
Từ 13-31/5/1985, Bộ Chính trị có hai cuộc họp bàn về giá - lương - tiền để chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ tám, đồng chí kết luận: Bài học lớn nhất mà chúng ta cần rút ra từ thực tế của những năm qua, đó là: đã đến lúc phải dứt khoát bãi bỏ quan liêu, bao cấp, phải mổ xẻ và loại bỏ cái nhọt nguy hiểm này càng sớm càng hay, không một chút gì đáng để chúng ta luyến tiếc 8[6].
Hội nghị Trung ương lần thứ tám họp từ ngày 10 -17/6/1985 là hội nghị Trung ương có tầm quan trọng đặc biệt, bàn và quyết định việc cải cách một bước giá cả, tiền lương, tài chính, tiền tệ để bãi bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Hội nghị này đánh dấu bước tiến đáng kể trong tư duy kinh tế của Đảng ta. Nghị quyết Trung ương lần này tiếp tục cụ thể hóa các nghị quyết Trung ương 6 và 7, tạo ra sự chuyển biến có ý nghĩa cách mạng trong nền kinh tế và trong đời sống xã hội ở nước ta.
Trong bài phát biểu tại Hội nghị, ông nói: Với nghị quyết Hội nghị Trung ương lần này, chúng ta sẽ chấm dứt thời kỳ điều khiển nền kinh tế bằng những mệnh lệnh hành chính, biểu hiện đặc trưng của cách quản lý tập trung quan liêu, bao cấp mà chuyển hẳn sang thời kỳ điều khiển nền kinh tế trên cơ sở vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, thông qua kế hoạch hóa gắn với hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa 10[8]. Song, điều đáng tiếc là trong chỉ đạo thực hiện, chúng ta đã phạm một loạt sai lầm, khuyết điểm. Trong bài phát biểu tại Hội nghị Trung ương lần thứ chín, từ ngày 09-16/12/1985, ông đã phân tích và chỉ rõ các sai lầm, khuyết điểm đó.
Cuộc đấu tranh để xóa bỏ dứt khoát mô hình kinh tế hiện vật và cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang mô hình kinh tế mới, cơ chế quản lý mới không phải là một quá trình giản đơn. Ngay từ đầu, ông đã xác định từng bước mục tiêu chiến lược của đổi mới tư duy kinh tế là phải xóa bỏ mô hình, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp để chuyển hẳn sang mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước (mặc dù lúc này khái niệm mô hình kinh tế thị trường chưa được làm sáng tỏ, nhưng tư tưởng cơ bản của ông là như vậy). Kể từ năm 1982 đến năm 1986, khi tiến hành Đại hội VI, phải mất 3, 4 năm, trải qua nhiều kỳ hội nghị Trung ương, với nhiều bài phát biểu thẳng thắn, đầy sức thuyết phục theo tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, ông kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng để từng bước cùng với Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương khóa V xác lập nên mô hình mới, cơ chế mới, đặt nền tảng lý luận cho đường lối đổi mới toàn diện của Đảng ta tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI.
Trong việc chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 8, có những lúc là sự chỉ đạo nửa vời, không đồng bộ, muốn quay về cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp thể hiện qua các chính sách, chế độ. Hệ thống tổ chức bộ máy, vẫn giữ nguyên như cũ, không chịu thay đổi. Thấy rõ tính chất phức tạp, khó khăn của quá trình đổi mới, đồng chí viết: “Đây là cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và cái lạc hậu. Cái khó nhất là ở chỗ: đây là cuộc đấu tranh trong nội bộ Đảng và cơ quan nhà nước, đấu tranh giữa những người đồng chí, đấu tranh với chính bản thân mình” 11[9]. Những lời lẽ ấy xuất phát tự đáy lòng ông và được thể nghiệm qua chính bản thân ông. Và ông nhấn mạnh: đó là cuộc “đấu tranh với tư tưởng bảo thủ, muốn quay trở lại cơ chế cũ đã quen thuộc, đồng thời phải ngăn ngừa và khắc phục khuynh hướng nôn nóng, giản đơn, muốn đổi mới xong xuôi trong một thời gian ngắn”12, cả hai khuynh hướng này đều đang tồn tại ở các ngành, các cấp, đặc biệt là trong giai đoạn giao thời hiện nay, khi cái cũ chưa bị xóa bỏ, cái mới chưa hình thành rõ nét.
Đóng góp to lớn của đồng chí Trường Chinh trên lĩnh vực kinh tế còn được thể hiện ở việc chỉ đạo chuẩn bị và tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng với nội dung đổi mới mọi mặt, trong đó đặc biệt quan trọng là đổi mới cơ chế kinh tế: chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước và hôm nay là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ đạo của Tổng Bí thư Trường Chinh về việc dự thảo bản Báo cáo chính trị mới chỉ trong thời gian ngắn trước khi Đại hội VI khai mạc là quyết định hiếm có trong lịch sử 13. [10]
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được tiến hành tại Hà Nội từ ngày 5-12-1986, đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh đã đọc Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa V trình Đại hội lần thứ VI của Đảng. Với sự chủ trì của đồng chí Trường Chinh, Đại hội đã thành công tốt đẹp với một tinh thần đổi mới, mở đầu cho một trang sử mới của Đảng, của đất nước và nhân dân ta.
1, 2. Trường Chinh: Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và của thời đại, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.66, tr.15.
3. Trường Chinh: Bài phát biểu tại Hội nghị Bộ Chính trị ngày 9/9/1986, thảo luận những giải pháp cấp bách và đặc biệt về tài chính, tiền tệ, giá cả - tiền lương, tr.2.
4. Trường Chinh: Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và của thời đại, Sđd, tr.13-14.
5, 6. Trường Chinh: Bài phát biểu tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương từ ngày 03 đến ngày 10/7/1984, tr.1, 3.
7. Trường Chinh: Bài phát biểu tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương từ ngày 10 đến ngày 17/12/1984, tr.6, 10.
8. Trường Chinh: Bài phát biểu tại Hội nghị Bộ Chính trị bàn về vấn đề giá - lương - tiền từ ngày 13 đến 15/5/1985, tr.4.
9. Trường Chinh: Bài phát biểu tại Hội nghị Bộ Chính trị bàn về vấn đề giá - lương - tiền từ ngày 30 đến 31/5/1985, tr.2-3.
10. Trường Chinh: Bài phát biểu tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương từ ngày 10 đến 17/6/1985, tr.1.
11,12. Trường Chinh: Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và của thời đại, Sđd, tr.34.
13. Chương trình viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước: Trường Chinh tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.63
Cẩm Tú (tổng hợp)