Ban Kinh tế Trung ương trân trọng giới thiệu một số bài tham luận tại Hội thảo chuyên đề 1: "Phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững vì một Việt Nam thịnh vượng" trong Hội nghị trực tuyến toàn quốc và Triển lãm quốc gia về thành tựu 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Bài 3: Một số vấn đề cơ bản của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam hiện nay
TS. Phạm Việt Dũng
Trưởng Ban Kinh tế, Tạp chí Cộng sản
1. Bước phát triển trong nhận thức, quan điểm của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội X đề ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt, với Nghị quyết Hội nghị Trung ương bẩy (khóa X, tháng 8/2008) "về nông nghiệp, nông dân, nông thôn" đánh dấu một bước phát triển mới trong nhận thức, quan điểm của Đảng.
Nghị quyết xác định: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp theo hướng hiện đại là then chốt.
Đồng thời, Nghị quyết đề ra các nhiệm vụ xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao, gắn với phát triển công nghiệp, dịch vụ; phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn với phát triển đô thị theo quy hoạch, xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường; Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh.
Tiếp đó là Kết luận số 97-KL/TW ngày 09/5/2014 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 Khóa X đã đáp ứng kịp thời sự mong đợi của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt cán bộ, đảng viên trong ngành nông nghiệp và bà con nông dân. Nghị quyết, Kết luận là một hệ thống toàn diện các chủ trương, giải pháp nhằm giải quyết đồng bộ các vấn đề của nông nghiệp, nông dân, nông thôn với mục tiêu "Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn; xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc".
Có thể thấy, đây là bước tiến lớn về nhận thức của Đảng về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân, điều này thể hiện ở những chủ trương, quan điểm nổi bật lớn là:
- Khẳng định phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là vấn đề chiến lược đối với sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là cơ sở, yếu tố quan trọng khai thác, phát huy tiềm năng, nguồn lực, lợi thế của đất nước; tạo tiền đề, điều kiện cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa; giữa vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; củng cố, tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng, an ninh; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
- Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, đòi hỏi phải được giải quyết đồng bộ. Trong mối quan hệ này, nông dân là "chủ thể" của quá trình phát triển; phát triển nông nghiệp toàn diện, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là "then chốt"; xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, giầu đẹp là "căn bản". Phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn bó chặt chẽ với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế của đất nước; phù hợp với điều kiện, đặc điểm, tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng lĩnh vực. Phát huy vai trò chủ động, năng động, sáng tạo, tích cực vươn lên của nông dân; khuyến khích phát triển.
- Phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội, đồng thời với tăng cường đầu tư của nhà nước, khai thác các nguồn lực vốn khoa học, công nghệ, mở rộng thị trường do hội nhập kinh tế quốc tế đem lại để phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đổi mới cơ chế chính sách phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại, đổi mới tổ chức, hoạt động các hợp tác xã nông nghiệp, các nông, lâm trường quốc doanh để nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp; tạo điều kiện thuận lợi cho tích tụ, tập trung ruộng đất, hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, các cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, tạo ra sản phẩm hàng hóa lớn gắn với phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản; gắn với thị trường (trong và ngoài nước).
- Xây dựng nông thôn mới theo hướng giàu, đẹp, văn minh. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch sản xuất, quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông, điện, nước, các công trình văn hóa, thể thao, trường học, bệnh viện, chợ nông thôn, quy hoạch các điểm dân cư… phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng địa phương với tầm nhìn dài hạn.
- Xây dựng và phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn; bảo đảm cơ bản các điều kiện sinh hoạt (điện, nước, thông tin), đi lại, học tập, khám chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa, thể thao cho nhân dân ở các vùng nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; tạo điều kiện hỗ trợ nông dân phát triển (về vốn, khoa học công nghệ, chế biến, tiêu thị sản phẩm, đào tạo nghề, chuyển đổi ngành nghề,…) để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống; nâng cao dân trí, thể lực, bảo đảm người dân nông thôn được hưởng thành quả của công cuộc đổi mới phát triển đất nước. Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nông dân; củng cố, phát huy vai trò của các tổ chức xã hội của nông dân; xây dựng, củng cố liên minh công nhân - nông dân - tri thức vững mạnh, tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Khái quát những thành tựu đạt được của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời gian qua
Cơ giới hóa trong nông nghiệp ngày càng được áp dụng rộng rãi, tạo tiền đề quan trọng để xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, giúp nông dân giảm công việc nặng nhọc, đảm bảo thời vụ gieo trồng, hạn chế các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và cắt giảm chi phí sản xuất, tăng thêm thu nhập tạo điều kiện để nông dân liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị.
Đến năm 2017, cả nước có trên 780 ngàn máy kéo các loại1, so với năm 2011 số máy kéo tăng 60%, máy gặt tăng 230%, lò/máy sấy sản phẩm tăng 25,8%, máy bơm tăng 52,2%, máy phun thuốc trừ sâu có động cơ tăng 305%... Chỉ tính riêng 14 loại máy móc, thiết bị chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp đã có 7,3 triệu chiếc, tăng 74% so với năm 2011; trong đó máy kéo công suất lớn từ 35CV trở lên tăng 92,4%, máy hạng trung có công suất trên 12CV tăng 31,3%... Kết quả cơ giới hóa đã làm thay đổi cơ cấu lao động xã hội; đã duy trì xu hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp trong lao động xã hội từ 51,8% năm 2008 xuống còn 46,3% năm 2013 và dưới 40,3% năm 2017.
Thực hiện chính sách phát triển thủy sản theo quy định tại các Nghị định: số 67/2014/NĐ-CP ngày 7/7/2014, số 172/2016/NĐ-CP ngày 27/12/2016, các địa phương đã đóng mới được 925 tàu cá. Trong đó, có 349 tàu cá vỏ thép (chiếm 37,72%), 78 tàu cá vỏ composite (chiếm 8,43%), 498 tàu cá vỏ gỗ (chiếm 53,84%), 130 tàu cá nâng cấp đi vào hoạt động sản xuất, nhiều tàu cá khai thác đạt hiệu quả kinh tế cao.
Đến nay, ngoài các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, chuyên canh quy mô lớn thông qua dồn điền, đổi thửa đã được hình thành trước đây, như lúa gạo (Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long); chè (Trung du miền núi phía Bắc, tỉnh Lâm Đồng); cà phê, cao su (Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Trung Bộ…); hồ tiêu (Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ…); điều (Đông Nam Bộ); rau quả, cá tra, tôm (Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải Miền Trung…), nhiều vùng sản xuất nông sản tập trung theo lợi thế vùng, miền, áp dụng quy trình kỹ thuật tiên tiến, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và theo nhu cầu thị trường đã dược hình thành như: vùng rừng sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ (Miền Trung, Tây Nguyên…), các vùng cây ăn trái (xoài, cam, bưởi, na, chuối...), vùng rau an toàn... Diện tích đã dồn điền đổi thửa là 693,7 nghìn ha, chiếm 6% tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp; cả nước có 2.294 xã tiến hành dồn điền đổi thửa, chiếm 25,6% tổng số xã2. Việc sản xuất nông sản thực phẩm theo tiêu chuẩn GlobalGap, VietGap, đã dần quen thuộc với người nông dân. Sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch và hiện đại đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, sự đồng hành của các doanh nghiệp và nông dân để từng bước xây dựng nền nông nghiệp Việt Nam xanh, sạch, hữu cơ và công nghệ cao.
Bên cạnh đó, quá trình CNH, HĐH trong nông nghiệp, nông thôn còn được thể hiện ở những mặt tích cực sau:
- Nông nghiệp phát triển với nhịp độ khá cao theo hướng tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả; kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản đều tăng nhanh. Trong hơn 30 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đạt được mức tăng trưởng nhanh và ổn định trong một thời gian dài, các ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản đều có tốc độ phát triển đáng kể và đang chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa lớn với năng suất và chất lượng ngày càng cao3, phát triển các ngành, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia và từng bước bảo đảm an ninh dinh dưỡng góp phần quan trọng giảm nghèo bền vững, đặc biệt trong các giai đoạn khó khăn của nền kinh tế. Giai đoạn 2008 - 2017 tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp đạt 2,66%/năm4, GDP ngành năm 2017 gấp 1,25 và GTSX ngành gấp 1,37 lần năm 2008 (giá so sánh năm 2010), tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành đạt 3,9%/năm.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường. Cơ cấu kinh tế cả nước tiếp tục chuyển dịch theo hướng hiện đại, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP cả nước giảm từ 21,1% năm 2008 xuống 17,96% năm 2013 và 15,34% năm 2017. Trong nội bộ ngành nông lâm thủy sản diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng phát huy lợi thế và thuận lợi về thị trường, tăng nhanh tỷ trọng của các ngành, sản phẩm có dư địa lớn và giá trị gia tăng cao hơn. Tỷ trọng giá trị sản xuất thủy sản tăng từ 22,01% năm 2008 lên 23,6% năm 2013 và 26,25% năm 2017; ổn định tỷ trọng giá trị sản xuất lâm nghiệp (mức 2,87% năm 2008 và 2,85% năm 2013, mức 4,08% năm 2017) và giảm tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp (từ mức 75,12% năm 2008 xuống mức 73,57% năm 2013 và mức 69,67% năm 2017).
Cơ cấu sản xuất được điều chỉnh, chuyển đổi theo hướng phát huy lợi thế của mỗi địa phương và cả nước, phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu, gắn với nhu cầu thị trường, nên năng suất, sản lượng cây trồng vật nuôi tăng nhanh, sản xuất đạt hiệu quả cao hơn. Một số nông sản lớn, chủ lực đã khẳng định được vị thế và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Cơ cấu ngành hàng, sản phẩm xuất khẩu thể hiện rõ kết quả tăng tỷ trọng các ngành, sản phẩm có lợi thế và thị trường như thủy sản (nhất là tôm nước lợ), rau, hoa, quả, cây công nghiệp giá trị cao, đồ gỗ và lâm sản ngoài gỗ; giảm các ngành hàng, sản phẩm đang có xu hướng tăng cung như lúa gạo; tăng tỷ trọng hàng chất lượng cao như thủy sản, đồ gỗ...
- Ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp ngày càng phổ biến theo hướng sử dụng giống mới, công nghệ sinh học, phương thức canh tác tiên tiến. Đặc biệt, bên cạnh việc cơ giới hóa các khâu trong sản xuất nông nghiệp như tưới nước, tuốt và làm sạch nông sản, chế biến thức ăn chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản… các khâu sơ chế, bảo quản nông, lâm, thủy sản sau thu hoạch cũng được ứng dụng công nghệ sản xuất tiên tiến, giúp kéo dài thời gian bảo quản sản phẩm mà vẫn giữ được giá trị dinh dưỡng.
- Hệ thống dịch vụ ở nông thôn có bước phát triển mới, nhất là dịch vụ cơ giới hoá, thủy lợi, thú y, bảo vệ thực vật và thương mại cung ứng vật tư, tiêu thụ nông sản, cấp nước sạch, xử lý rác thải sinh hoạt… với sự tham gia của các thành phần kinh tế; các địa phương đã tập trung nguồn lực để hỗ trợ cứng hoá hệ thống kênh mương thuỷ lợi nội đồng phục vụ tưới, tiêu nước sản xuất nông nghiệp… Nhờ đó, cơ cấu ngành nghề và cơ cấu lao động nông thôn có sự thay đổi tích cực: Số hộ nông thôn tham gia các hoạt động công nghiệp, xây dựng và dịch vụ năm 2016 chiếm 40,03% (tăng 6,59% so với năm 2011 và 14,93% so với năm 2006); số hộ nông thôn hoạt động trong lĩnh vực NLTS chiếm 53,66% (giảm 8,49% so với năm 2011 và 19,67% so với năm 2006). Trong 5 năm 2011 - 2016, tỷ lệ hộ gia đình ở nông thôn có thu nhập lớn nhất từ NLTS giảm từ 57% xuống 47,9%, số hộ có thu nhập lớn nhất từ hoạt động phi nông nghiệp tăng từ 36,7% lên 44,2%; thu nhập từ hoạt động sản xuất NLTS trong cơ cấu thu nhập bình quân đầu người/tháng khu vực nông thôn giảm từ 39,5% xuống còn 27%.
Trên cả nước, đã phát triển nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu kinh tế ven biển, xây dựng một số khu, vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trung tâm thương mại - dịch vụ ở nông thôn. Đến hết năm 2016, cả nước có 86,2% số xã cả nước có cơ sở chuyên chế biến nông sản, 73,7% số xã có cơ sở chuyên chế biến lâm sản, 7,4% số xã có cơ sở chuyên chế biến thủy sản; 60,8% số xã có chợ đang hoạt động.
Có thể nói, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân ở nông thôn. Thu nhập và đời sống người dân ngày càng cải thiện, tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm bình quân 1,8% /năm[1]; trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật của nhiều nông dân được nâng lên rõ rệt. Công tác chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh, phổ cập giáo dục, văn hoá, thông tin, thể thao cũng được quan tâm và đẩy mạnh hơn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được tăng cường; vị thế giai cấp nông dân được nâng cao; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
3. Một số hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vẫn còn một số khó khăn, hạn chế sau:
- Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn phát triển chưa mạnh, chưa đủ sức lớn để "hút" khu vực nông nghiệp chuyển dịch nhanh hơn.
- Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa lớn, tập trung: Kinh tế hộ vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số hộ ở nông thôn (chiếm 53,9%), quy mô sản xuất hộ nhỏ lẻ[2] (trung bình chỉ đạt 0,18 ha/thửa và 2,5 thửa đất/hộ) đang trở thành lực cản quá trình tập trung đất đai hình thành vùng nguyên liệu cho sản xuất lớn, ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ cao và cơ giới hóa, ảnh hưởng đến khả năng thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Tổ hợp tác phát triển còn nhiều khó khăn, chưa hỗ trợ nhiều cho hộ nông dân tham gia liên kết sản xuất với doanh nghiệp. Hợp tác xã nông nghiệp chuyển đổi, thành lập mới theo Luật Hợp tác xã tăng chậm về số lượng, hiệu quả hoạt động còn thấp (tỷ lệ HTX hoạt động hiệu quả chỉ chiếm 33% năm 2017), doanh thu thuần chỉ đạt 1,0 tỷ đồng/HTX/năm. Sắp xếp công ty nông, lâm nghiệp vẫn còn một số địa phương thực hiện chậm tiến độ so với phương án được phê duyệt. Doanh nghiệp nông nghiệp còn ít (chiếm dưới 1% so với tổng số doanh nghiệp cả nước), quy mô nhỏ, năng lực tài chính thấp (trên 90% là doanh nghiệp nhỏ, thậm chí siêu nhỏ)[3], hiệu quả hoạt động chưa cao. Liên kết sản xuất giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị chưa trở thành phổ biến, chủ đạo để thúc đẩy cơ giới hóa, ứng dụng công nghệ cao giảm chi phí trung gian, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp. Còn ít các chuỗi giá trị nông sản khép kín, có quy mô lớn hiện đại với sự tham gia và chia sẻ minh bạch chi phí, rủi ro và giá trị gia tăng giữa các tác nhân trong chuỗi.
- Ứng dụng công nghệ cao, công nghệ hiện đại vào sản xuất, chế biến, bảo quản còn hạn chế, chưa tạo được "đột phá" để nâng cao giá trị gia tăng, sức cạnh tranh của sản phẩm, ngành, nhất là trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng hơn. Trình độ công nghệ nhìn chung còn thấp, chưa tạo sức mạnh lan tỏa và thúc đẩy nhanh quá trình thay đổi tập quán canh tác nhỏ lẻ, thiếu liên kết, không chuyên nghiệp. Thị trường khoa học công nghệ chưa tạo sự gắn kết có hiệu quả giữa nghiên cứu với đào tạo và sản xuất kinh doanh nông sản. Thực trạng này, cùng với những hạn chế của công nghiệp chế biến nông sản, làm cho năng suất, chất lượng của nông sản còn thấp, chi phí sản xuất giảm chậm, dẫn đến giá thành còn cao, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp. Công tác quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, nông sản trên phạm vi cả nước tuy đã có nhiều tiến bộ, nhưng vẫn đang là vấn đề nổi lên được xã hội quan tâm, gây cản trở cho nông sản Việt Nam thâm nhập thị trường các nước phát triển.
- Quá trình phát triển nông nghiệp vẫn có nhiều yếu tố thiếu bền vững, thâm dụng tài nguyên, những yếu kém nội tại (sản xuất nhỏ, tính chuyên môn chưa cao, lao động tuy dồi dào nhưng trình độ còn thấp...) đã được khắc phục nhiều từ khi thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nhưng còn chậm chưa đáp ứng được đòi hỏi của nền sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn và tiêu chuẩn cao từ thị trường quốc tế. Tăng trưởng của ngành chưa vững chắc, vẫn chưa khắc phục được xu hướng giảm[4] (năm 2009 đạt 1,91%, năm 2016 chỉ đạt 1,36%) và chưa đạt mục tiêu của Nghị quyết Trung ương 7 khóa X là 3,5 - 4,0%/năm (bình quân giai đoạn 2008 - 2017 đạt 2,66%/năm), thấp hơn so với năm 2008 (4,68%).
- Tốc độ phát triển chế biến NLTS chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, cơ cấu sản phẩm chế biến chưa hợp lý, đóng góp của công nghiệp chế biến vào gia tăng giá trị chưa cao; tỷ lệ nông sản được chế biến sâu, chế biến tinh hoặc bằng công nghệ cao còn thấp, số doanh nghiệp tham gia chưa nhiều; công nghệ bảo quản sau thu hoạch chưa đáp ứng được nhu cầu tăng sức sản xuất và đòi hỏi xử lý tính mùa vụ của sản xuất nông nghiệp, tổn thất sau thu hoạch còn cao; việc sử dụng các phế phụ phẩm chưa được quan tâm đúng mức; công nghiệp hỗ trợ để hoàn thiện sản phẩm chậm phát triển. Vì vậy, trong một số trường hợp, nhất là vào những thời điểm thu hoạch rộ hoặc thị trường xuất khẩu có "trục trặc" đã không thể tăng chế biến, hỗ trợ tiêu thụ, giảm thiệt hại cho nông dân.
- Thị trường tiêu thụ nông sản nổi lên là vấn đề hết sức bức thiết, khi khả năng tiêu thụ chưa đáp ứng được sức sản xuất lớn và đang tăng của nền nông nghiệp hàng hóa, dẫn đến có lúc, có nơi tiêu thụ bị chậm, xảy ra tình trạng dư thừa cục bộ đối với một vài sản phẩm nông nghiệp, ảnh hưởng đến sản xuất, thu nhập và đời sống của người sản xuất; hàng nông sản xuất khẩu phần lớn vẫn ở dạng thô[5], chậm xây dựng thương hiệu cho các nông sản chủ lực quốc gia. Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, môi trường cạnh tranh gay gắt, nhưng công tác phát triển thị trường, xúc tiến thương mại chưa thực sự hiệu quả, chưa tạo thuận lợi cho đầu ra của nông sản trong khi tiềm năng sản xuất trong nước còn rất lớn.
Về nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn trên, có thể kể đến:
- Chính sách về huy động các nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, nông thôn chưa đủ mạnh để huy động đầu tư từ các nguồn ngoài ngân sách. Đầu tư từ NSNN còn hạn chế, thấp hơn nhiều so với yêu cầu (kể cả trung hạn 2016 - 2020), chưa đạt mục tiêu của Nghị quyết Trung ương 7 khóa X, do 5 năm sau chỉ tăng 1,54 lần 5 năm trước (yêu cầu của Nghị quyết là tăng 2 lần), bằng khoảng 1,9% GDP trong khi khu vực nông nghiệp đóng góp 15,3% GDP.
- Một số văn bản pháp luật chậm được ban hành, sửa đổi, bổ sung nên chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành nông nghiệp. Các chính sách để giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn… chưa đồng bộ, chưa đầy đủ.
- Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn ở nhiều nơi chuyển dịch chậm; ngành nghề dịch vụ nông thôn phát triển chưa tương xứng với tiềm năng… Cơ cấu lao động nông thôn cơ bản vẫn là thuần nông. Tỷ trọng lao động nông nghiệp còn cao so với lao động cả nước (giảm từ 51,8% năm 2008 xuống 46,5% năm 2013 và 40,3% năm 2017), do đó năng suất lao động nông nghiệp mặc dù đã được cải thiện nhiều (năm 2017 chỉ đạt 35,5 triệu đồng/lao động)[6], nhưng vẫn thấp hơn so với khu vực công nghiệp và dịch vụ[7]. Trong khi đó khu vực công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn phát triển chưa đủ lớn về quy mô, mạnh về khả năng tạo việc làm, dẫn đến lao động nông nghiệp dư thừa, thiếu việc làm đang tạo sức ép lớn đối với các địa phương và khu vực nông thôn.
- Chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã được cải thiện nhiều, nhưng kết quả chưa cao; trong khi chất lượng lao động nông nghiệp còn thấp[8], tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo (tính cả số qua đào tạo nhưng không có bằng, chứng chỉ) tăng từ 15,45% năm 2011 lên 34,14% năm 2016.
- Hộ gia đình nông dân với diện tích đất được phân chia phân tán, manh mún (diện tích đất nông nghiệp trung bình chỉ 0,45 ha/hộ)[9] đang cản trở việc ứng dụng cơ giới hóa, khoa học công nghệ để nâng cao hiệu quả và giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích đất, gây khó khăn cho quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất.
- Năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của một số nông sản phẩm còn thấp. Việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn hạn chế. Kinh phí đầu tư cho khoa học, công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn quá ít. Xã hội hóa đầu tư để tăng kinh phí cho nghiên cứu triển khai trong nông nghiệp còn hạn chế.
- Việc phát triển các thành phần kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp còn hạn chế. Doanh nghiệp tư nhân là nhân tố quan trọng trong phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn nhưng quy mô còn nhỏ, chủ yếu là hoạt động dịch vụ và chỉ phát triển mạnh ở ven đô thị hoặc nơi có kết cấu hạ tầng tương đối phát triển.
- Cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn còn nhiều bất cập so với yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn và cạnh tranh quốc tế, cũng như phòng chống thiên tai, nhất là khu vực miền núi.
4. Quan điểm và một số định hướng giải pháp
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.
Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; gắn kết sâu hơn công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp, đô thị với nông thôn.
Trong thời gian tới, để đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, tiếp tục rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực nông nghiệp: theo hướng đáp ứng yêu cầu phát triển của CNH, HĐH ngành nông nghiệp. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các chính sách để giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn; bổ sung quy định đối với ngành thuỷ sản; bổ sung các quy định mới để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động và phát triển doanh nghiệp khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi; nâng cao công tác quản lý nhà nước trong khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi, đặc biệt trong khâu kiểm soát nước, chống lấn chiếm trong phạm vi bảo vệ công trình thuỷ lợi. Tiến hành tổng kết chính sách thí điểm bảo hiểm nông nghiệp nhằm sớm ban hành Luật bảo hiểm nông nghiệp để bảo hiểm các hoạt động đầu tư, sản xuất nông nghiệp của nông dân.
Hai là, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch sản xuất: Tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản) trên cơ sở phát huy lợi thế sản phẩm và lợi thế vùng miền. Rà soát, kiểm soát chặt chẽ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, đất quy hoạch cho các mặt hàng nông sản chiến lược, mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đất cho chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp, gắn sản xuất với chế biến và thị trường. Phát triển sản xuất với quy mô hợp lý các loại nông sản hàng hoá xuất khẩu có lợi thế nông sản thay thế nhập khẩu. Nghiên cứu, phát triển chăn nuôi theo hướng chăn nuôi công nghiệp và bán công nghiệp; phát triển thức ăn chăn nuôi với quy mô lớn để phục vụ nhu cầu chăn nuôi trong nước. Tổ chức liên kết chặt chẽ giữa các cơ sở, hộ gia đình chăn nuôi và các cơ sở chế biến.
Ba là, tăng cường nguồn lực cho nông nghiệp, nông thôn. Hiện nay, nguồn vốn cho thực hiện các nhiệm vụ trong Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, nhưng cũng chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu, mức huy động từ các nguồn khác còn thấp (tổng đầu tư xã hội cho nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 5,8%; tỷ trọng FDI nông nghiệp trong tổng FDI chung của cả nước rất thấp và có xu hướng giảm, còn dưới 1% vào năm 2017; đầu tư của doanh nghiệp trong nước có tăng trong vài năm gần đây nhưng vẫn còn rất ít (số doanh nghiệp nông nghiệp chiếm dưới 1% số doanh nghiệp của cả nước). Đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trong những năm qua luôn chỉ chiếm một tỷ lệ thấp trong tổng đầu tư vào xã hội cũng như đầu tư từ ngân sách nhà nước. Máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu, giống cây, giống con, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật phần lớn phải nhập khẩu; kho chứa, bảo quản sản phẩm thiếu, công nghệ lạc hậu. Công nghiệp chế biến nông sản chưa phát triển. Nhiều sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu kim ngạch lớn nhưng phần là lớn là xuất thô hay mới chỉ sơ chế, giá trị gia tăng thấp, chỉ là nguyên liệu đầu vào để các công ty nước ngoài chế biến để mang thương hiệu của họ trên thị trường thế giới. Tình trạng được mùa, mất giá, giá cả bấp bênh, tiêu thụ sản phẩm khó khăn lặp lại nhiều lần với nhiều sản phẩm nông nghiệp chưa được khắc phục.
Bốn là, nâng cao vai trò, trách nhiệm của khu vực công nghiệp, dịch vụ đối với hỗ trợ cho nông nghiệp. Trong các chủ trương, quan điểm phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn của Đảng vừa qua và hiện nay còn chưa chú ý và quan tâm đúng mức đến việc phát triển nông nghiệp liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm, một xu hướng lớn, tất yếu của nông nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường hiện nay. Nông nghiệp nước ta những năm qua, chủ yếu tập trung vào khâu sản xuất, làm chủ khâu sản xuất mà chưa chú ý, chưa làm chủ được khâu chế biến và phân phối tiêu thu sản phẩm trên thị trường (bao gồm cả việc xây dựng thương hiệu sản phẩm), cả hai khâu này phần lớn do các đối tác, các doanh nghiệp nước ngoài nắm giữ, chi phối; do đó, người sản xuất trong nước thường bị thua thiệt, bị động, trong khi các đơn vị chế biến, phân phối (chủ yếu là nước ngoài) thu lợi lớn.
Bên cạnh đó, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp hỗ trợ sau:
- Cơ cấu lại thị trường nội địa, phát triển hệ thống bán buôn, bán lẻ; chú trọng hơn nữa vào phát triển thị trường vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số theo hướng khuyến khích phát triển doanh nghiệp xã hội đảm bảo lợi ích người sản xuất trực tiếp. Đối với thị trường xuất khẩu, duy trì thị trường truyền thống, phát triển thị trường mới, chú trọng xây dựng thương hiệu sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành để tăng sức cạnh tranh. Điều tra, khảo sát, nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, thủy, hải sản để nắm bắt thị hiếu tiêu dùng, cơ cấu sản phẩm, giá cả, tập quán buôn bán của các thị trường. Xây dựng đội ngũ chuyên gia có năng lực về phân tích, nghiên cứu, dự báo thị trường để tham mưu, đề xuất chính sách hiệu quả. Nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành hàng trong việc cung cấp thông tin, thống nhất thực hiện các chiến lược phát triển sản xuất, liên kết trong kinh doanh, đàm phán ký kết hợp đồng.
- Ðẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, nhất là việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng giống cây trồng, giống vật nuôi, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản; ứng dụng công nghệ sinh học và xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao; nâng cao khả năng phòng ngừa và khắc phục dịch bệnh đối với cây trồng, vật nuôi…Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến nông, lâm thủy sản…
- Có chính sách khuyến khích phát triển các mối liên kết giữa hộ nông dân với các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức khoa học, hiệp hội ngành hàng và thị trường tiêu thụ sản phẩm để hỗ trợ kinh tế hộ phát triển theo hướng gia trại, trang trại có quy mô phù hợp, sản xuất hàng hoá lớn. Hình thành các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh hiện đại và chuyên nghiệp, phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, liên kết dọc sản xuất, chế biến, kinh doanh sản phẩm nông nghiệp, liên kết nông nghiệp với công nghiệp và kinh tế đô thị.
- Đa dạng hóa các nguồn vốn để tiếp tục đầu tư phát triển mạnh hơn cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thủy lợi đồng bộ, đi đôi với đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý để bảo đảm an toàn về nước. Củng cố hệ thống hồ đập, kè ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ động phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường nước. Tiếp tục đầu tư phát triển giao thông nông thôn, bảo đảm các xã đều có đường ô-tô tới khu trung tâm, từng bước phát triển đường ôtô tới thôn bản; bảo đảm dân cư nông thôn có điện sinh hoạt và được sử dụng nước sạch. Có chính sách cho doanh nghiệp tham gia mô hình liên kết doanh nghiệp – nông dân được vay vốn trung, dài hạn với lãi suất ưu đãi để triển khai thực hiện mô hình liên kết. Nghiên cứu thành lập quỹ hỗ trợ nông dân trong sản xuất và công nghệ sau thu hoạch (trước mắt là sản phẩm lúa gạo) để hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất và giảm thiểu tổn thất sau thu hoạch.
- Có chế độ, chính sách đãi ngộ, thu hút các nhà khoa học trong lĩnh vực công nghệ cao làm việc trong ngành nông nghiệp, đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực, trình độ đến công tác ở nông thôn; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là lực lượng cán bộ trực tiếp thực hiện ở cơ sở. Tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội từng địa phương, từng vùng và sát với nhu cầu, gắn với giải quyết việc làm. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề, nhất là cho vùng sâu, vùng xa, vùng núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
- Ban Kinh tế Trung ương: Báo cáo chuyên đề: Một số vấn đề lý luận về nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
- TS. Nguyễn Văn Giàu, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội): Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn: Những vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
- TS. Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược PTNT, Bộ Nông nghiệp và PTNT: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong 30 năm đổi mới và định hướng trong thời gian tới.
1 50 ngàn máy gieo lạc, 2,5 ngàn máy cấy, trên 28 ngàn máy gieo sạ, 1,78 triệu máy phun thuốc trừ sâu có động cơ, 3,3 triệu máy bơm nước, 25,8 ngàn máy gặt đập liên hợp, gần 19 ngàn máy gặt rải hàng, 278 ngàn máy tuốt lúa có động cơ, 23 ngàn máy tẽ ngô, 80 ngàn lò/máy sấy nông sản, 250 ngàn máy chế biến lương thực, 137 ngàn máy chế biến thức ăn gia súc, 14,2 ngàn máy chế biến thức ăn thủy sản, 453 ngàn máy sục khí dùng trong nuôi trồng thủy sản, 165 ngàn xe vận chuyển...
2 Theo Tổng điều tra NNNT năm 2016, các vùng ĐBSH, BTB và DHMT là những vùng triển khai dồn điền đổi thửa rộng khắp các địa phương. ĐBSH có 69,1% tổng số xã thực hiện với diện tích dồn điền đổi thửa 419,5 nghìn ha, chiếm 52,5% diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Tiếp theo là BTB và DHMT có 32,3% tổng số xã thực hiện với diện tích dồn điền đổi thửa là 253,5 nghìn ha, chiếm 11,5% tổng diện tích đất sản xuất NN.
3 Nhiều mặt hàng có năng suất cao, chi phí sản xuất thấp, có lợi thế cạnh tranh cao và đang từng bước chiếm lĩnh thị trường thế giới. Năng suất lúa gạo cao nhất trong khu vực Đông Nam Á đạt 5,6 tấn/ha, gần gấp đôi so với Thái Lan và gấp 1,5 lần so với Ấn Độ; năng suất cà phê đạt 2,6 tấn nhân xô/ha, cao gấp 1,5 lần so với Brazil, gấp 3 lần so với Colombia, Indonesia; năng suất hồ tiêu đạt 2,6 tấn/ha, gấp 3 lần so với Indonesia và 1,3 lần của Ấn Độ; năng suất cá tra bình quân đạt 209 tấn/ha, có ao nuôi đạt 300 - 400 tấn/ha, cao nhất thế giới; năng suất tôm sú đạt 0,45 tấn/ha, tôm thẻ chân trắng đạt 3.91 tấn/ha, cao hơn so với Ấn Độ (tôm thẻ chân trắng năng suất 3,5 tấn/ha) và Thái Lan (tôm thẻ chân trắng năng suất 3,6 tấn/ha).
4 Năm 2008 tốc độ tăng GDP ngành là 4,68%; giai đoạn 5 năm (2009 - 2013), GDP ngành tăng bình quân 2,9%/năm, giai đoạn 4 năm (2014 - 2017) GDP ngành tăng 2,57%/năm.
[1] Báo cáo số 7672/BNN-KH ngày 24/9/2014 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
[2] hiện còn 8,58 triệu hộ sản xuất NLTS.
[3] quy mô doanh nghiệp nhỏ, sử dụng từ 10-50 lao động, quy mô vốn từ 1-5 tỷ đồng; doanh thu thuần bình quân/doanh nghiệp/năm chỉ đạt 3,6 tỷ đồng.
[4] Tốc độ tăng GDP nông nghiệp giai đoạn 1995 - 2000 đạt 4%/năm, giảm xuống còn 3,8%/năm trong giai đoạn 2001 - 2005 và 3,4%/năm giai đoạn 2006 - 2010
[5] Mủ cao su khô SVR 10, 20 chỉ chiếm 15-17% nên các DN trong nước phải nhập khẩu loại mủ này để sản xuất lốp ô tô; lượng cà phê nhân XK chiếm gần 90%; hồ tiêu xuất khẩu có chất lượng trung bình chiếm khoảng 70%; chế biến sâu hạt điều chỉ đạt khoảng 5-6%; khoảng 70-75% lượng sắn XK là sắn lát; hàng năm XK 8,2 triệu tấn dăm gỗ, tương đương 1 tỷ USD...
[6] Tăng từ 12,2 triệu đồng/người (2008) lên 26,4 triệu đồng/người năm 2013 và 35,5 triệu đồng/người năm 2017.
[7] Đến năm 2017, vẫn còn tới 21,6 triệu lao động làm việc trong khu vực NLTS. NSLĐ khu vực này chỉ đạt 35,5 triệu đồng/lao động, bằng 38,1% NSLĐ chung của nền kinh tế; bằng 29,4% NSLĐ khu vực CN và bằng 31,3% NSLĐ khu vực dịch vụ.
[8] Tỷ lệ LĐ NT qua đào tạo có chứng chỉ và sơ cấp nghề trở lên chỉ tăng từ 11,16% (2011) lên 15,87% (2016).
[9] Cả nước có hơn 27 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó đã giao cho các hộ gia đình 15 triệu ha, chiếm 55% tổng diện tích.