Các ngành công nghiệp văn hóa thể hiện rõ xu thế kinh tế và văn hóa thấm sâu vào nhau, là kết hợp của các yếu tố chính: sang tạo, cơ sở hạ tầng và công nghệ sản xuất hiện đại, từ đó có thể sản sinh ra các sản phẩm văn hóa đem lại lợi ích kinh tế.
Công nghiệp văn hóa là sự ứng dụng của những tiến bộ công nghệ - thông tin và kỹ năng kinh doanh, sử dụng nguyên liệu đầu vào là năng lực sáng tạo, nguồn vốn văn hóa, nguồn vốn trí tuệ, để tạo đầu ra là các sản phẩm - dịch vụ văn hóa, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng, hưởng thụ văn hóa ngày mạnh mẽ và đa dạng của người dân.
Ở các nước phát triển, công nghiệp văn hóa đã mang lại nguồn thu lớn cho tổng sản phẩm trong nước (GDP). Ở Hồng Kông, 85% thu nhập quốc dân có được từ nguồn thu dịch vụ giải trí, truyền hình và quảng cáo. Ở Nhật Bản, một đất nước có ngành công nghiệp văn hoá tầm cỡ. Điển hình là trong việc viết truyện, xuất bản truyện, làm quà lưu niệm từ các tác phẩm truyện này, làm anime, và làm các game từ các tác phẩm... trung bình doanh thu của họ đã lên đến 2 tỉ USD. Ở Hàn Quốc, một quốc gia cũng không kém cạnh so với Nhật Bản, các nhóm nhạc, những bộ phim, đều được các phương tiện truyền thông đưa đi khắp trên toàn cầu. Vì thế mà các tác phẩm này được ưa chuộng.
Sản phẩm và dịch vụ của mỗi ngành công nghiệp văn hóa có đặc điểm riêng, nhưng về cơ bản, các ngành công nghiệp văn hóa có quy trình hoạt động chính: sáng tạo, sản xuất, phân phối dịch vụ và tiêu dùng sản phẩm văn hóa.
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 tại Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã nêu ró nhiệm vụ về phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng và hoàn thiện thị trường văn hóa.
Ngày 08/9/2016, Chính phủ ban hành “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn 2030” đã thúc đẩy phát triển 12 lĩnh vực: Quảng cáo; Kiến trúc; Phần mềm và các trò chơi giải trí; Thủ công mỹ nghệ; Thiết kế; Điện ảnh; Xuất bản; Thời trang; Nghệ thuật biểu diễn; Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; Du lịch văn hóa.
Theo báo cáo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, sau 05 năm triển khai thực hiện Chiến lược, 12 ngành công nghiệp văn hóa đã đạt được một số thành tựu nhất định, tính đến năm 2018, 12 ngành công nghiệp văn hóa đã đóng góp doanh thu khoảng 8,081 tỷ USD, tương đương 3,61% GDP. Phát triển công nghiệp văn hóa đang trở thành xu hướng và được xác định là phần quan trọng, bền vững, thu hút nguồn lực, lao động, việc làm, phát huy lợi thế cạnh tranh.
Tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê; Báo cáo định kỳ 2016-2019 Công ước UNESCO; Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, một số kết quả phát triển các ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam cụ thể như sau:
(1) Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt trung bình 6,81% từ 2016 đến 2019. GDP bình quân đầu người: 2.786 USD, thuộc nhóm thu nhập thấp.
(2) Đóng góp GDP của các ngành CNVH: 2,44% GDP (2010); 3,5% GDP (2015); 3,61% GDP (2018) (tương đương 8.081 tỷ USD)
(3) Tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực văn hoá: 1.72% (2009); 3,45% (2015); 3,5% (2018); 5,0% (2019)
(4) Số lượng doanh nghiệp văn hoá năm 2019 là 97.167 doanh nghiệp
(5) Không gian văn hoá sáng tạo ngoài công lập: 40 không gian (2017); 195 không gian (2021)
(6) Cả nước hiện có: 115 đơn vị văn hóa nghệ thuật công lập (12 ở trung ương và 103 ở địa phương); 108 cơ sở đào tạo tham gia đào tạo văn hóa - nghệ thuật...
(7) Xuất khẩu sản phẩm văn hoá: 2019: 2.494.075.077,00 (USD)
(8) Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu hàng hoá sáng tạo thường niên 2003- 2015: 17,9%
(9) Giá trị xuất khẩu hàng hoá sáng tạo Việt Nam: 2015: 837.014,65 triệu USD
Ảnh minh họa
Nhận thức được tầm quan trọng của công nghiệp văn hóa, với những thay đổi tích cực về cơ chế, chính sách, sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền các cấp, sự quan tâm đặc biệt của toàn xã hội, các ngành công nghiệp văn hóa tại địa phương đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trong giai đoạn 2016-2022 như: Thành phố Hà Nội, ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 1,49 tỉ USD vào tổng sản phẩm của thành phố, chiếm tỷ trọng 3,7% GDP (năm 2018). Thành phố Hồ Chí Minh, đóng góp của sản xuất công nghiệp văn hóa vào GDP năm 2010 chiếm tỷ lệ 3,77%, đến năm 2019 chiếm tỷ lệ 3,88%; Năm 2020, do ảnh hưởng của Đại dịch Covid-19 nên đóng góp có sụt giảm đạt 3,54% tổng GDP của Thành phố. Thành phố Đà Nẵng, ngân sách đầu tư cho hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở là 247,9 tỷ đồng, trong đó: năm 2019 là 20,9 tỉ đồng, 2020 là 49,3 tỷ đồng, 2021 là 38,4 tỉ đồng. Tỉnh Ninh Bình, lượng khách thăm quan trong khu vực Quần thể danh thắng Tràng An trong những năm qua có sự tăng trưởng rõ rệt, năm 2016 đạt 2.457.798 lượt khách, năm 2019 đạt 3.103.093 lượt khách. Tỉnh Thừa Thiên Huế, kinh phí dự kiến thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư tu bổ, tôn tạo, bảo quản các di tích, di sản của tỉnh đến năm 2030 là 267,827 tỷ đồng, trong đó trung ương hỗ trợ là 25,7 tỷ đồng, nguồn vốn đầu tư công trung hạn là 186,137 tỳ đồng, ngân sách của huyện, xã quản lý là 5,147 tỷ đồng, nguồn vốn huy động ngoài ngân sách là 51,143 tỷ đồng. Tỉnh Quảng Ninh đầu tư theo hình thức đối tác công - tư cho văn hóa từ năm 2014 đến nay thu hút được 7 dự án với tổng mức đầu tư là 1.494,76 tỷ đồng.
Ngoài ra, việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa kéo theo sự phát triển của các ngành liên quan khác như du lịch, ẩm thực, trang phục, mỹ phẩm... Các quốc gia vừa tiêu dùng và xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp văn hóa vừa xuất các sản phẩm liên quan vừa làm tăng nguồn thu vừa góp phần nâng cao uy tín quốc gia, gia tăng sức cạnh tranh và hội nhập quốc tế, đồng thời khẳng định vị trí, vai trò của công nghiệp văn hóa trong nền kinh tế.
Để các ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam phát triển đạt mục tiêu đề ra trong Chiến lược đến năm 2030 đóng góp 7% GDP, trong thời gian tới cần phải quan tâm thực hiện những điểm sau:
- Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế công nghiệp văn hóa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, tập trung vào hoàn thiện chính sách thúc đẩy sự phát triển và khai thác có hiệu quả tài nguyên văn hóa Việt Nam (tài nguyên văn hóa được thể hiện ở các lĩnh vực như nghệ thuật, thiết kế, giải trí, tài sản văn hóa, lối sống (ăn,ở, mặc,..); chính sách đào tạo và thu hút nhân tài; chính sách hợp tác công – tư.
- Thứ hai, lựa chọn phát triển những ngành có tính chất tập trung lao động dựa trên cơ sở tri thức, tạo ra việc làm và nguồn thu nhập cao.
- Thứ ba, phát triển thị trường công nghiệp văn hóa, thúc đẩy tính liên ngành; mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế nhằm tiếp cận những thành tựu phát triển của thế giới.
- Thứ tư, phát huy tối đa lợi thế của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để phát triển hạ tầng công nghiệp văn hóa, gia tăng khả năng tiếp cận của đại chúng, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng.
- Thứ năm, tập trung nguồn lực đầu tư một số trung tâm công nghiệp sáng tạo của Việt Nam, có chính sách riêng đối với những trung tâm này nhằm thu hút các tài năng sáng tạo công nghiệp văn hóa và thuận lợi hơn trong công tác quản lý.
TS Nguyễn Mạnh Hùng
Phó Vụ trưởng Vụ Xã hội