THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG LÃI SUẤT QUÝ III VÀ IV NĂM 2017
TS. LS Bùi Quang Tín,
Khoa Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM,
Thành viên Đoàn Luật sư TP.HCM
Tóm tắt: Ổn định mặt bằng lãi suất ở mức thấp nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, qua đó góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng đang là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của Chính phủ hiện nay. Kết thúc năm 2016, mặt bằng lãi suất trên thị trường tài chính cơ bản được giữ ổn định, đặc biệt, lãi suất cho vay có xu hướng giảm nhẹ với một số nhóm đối tượng khách hàng phù hợp với chủ trương của Chính phủ về giảm lãi suất cho vay, nhằm khuyến khích sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế. Bước sang các tháng đầu năm 2017, mặt bằng lãi suất tiếp tục được duy trì ổn định như năm 2016, lãi suất huy động và cho vay các kỳ hạn dài biến động tăng khoảng 0,5-1%. Tuy nhiên, diễn biến của lãi suất trên các thị trường có dấu hiệu giảm nhẹ vào những ngày gấn cuối tháng 6 này. Ngoài việc phân tích thực trạng của lãi suất năm 2016, 2 quý đầu năm 2017, bài viết còn phân tích xu hướng của lãi suất trong 2 quý còn lại của năm 2017.
Abstracts: To stabilize interests in the the low level in order to help the enterprises expand their production and businesses and to contribute to force the economy cultivating is the prior target of the government recently. In the end of 2016, the interests in the financial market is basically stable, especially, the lending interest has the slowly descend tendency with some objects comfortable with the guideline of the government about reducing the lending rate in order to stimulate businesses and develop the economy. In the first months of 2017, the interest rate is stable as the year of 2016, the deposit and lending rates on the long period increases about 0,5-1%. However, the market rate is decreasing in this June. Besides, the reality analysis of the market rate in 2016 and 2 quarters of 2017, this article analyses the tendency of the rate in the last 2 quarters of 2017.
Năm 2016 khép lại đã không hoàn thành chỉ tiêu về tăng trưởng GDP, khi chỉ đạt 6,21% thấp hơn so với kế hoạch 6,7%. Bước sang năm 2017, mặc dù đứng trước nhiều thách thức cả bên trong và bên ngoài nhưng Chính phủ vẫn quyết tâm để đưa ra mục tiêu tăng trưởng GDP ở mức 6,7% và lạm phát bình quân cả năm tăng không quá 4% nhằm giữ cho mặt bằng lãi suất ổn định ở mức thấp, qua đó hỗ trợ các doanh nghiệp có điều kiện để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Nền kinh tế cũng đang phải đối mặt với nhiều yếu tố bất lợi. Thứ nhất, thâm hụt thương mại đang có xu hướng quay trở lại. Nếu cán cân thương mại thâm hụt ở mức cao sẽ gây áp lực rất lớn lên tỷ giá. Thứ hai, lạm phát đang đối mặt với nhiều áp lực khi mà Chính phủ đang buộc phải điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế và giá điện sinh hoạt trong năm 2017 sau nhiều lần trì hoãn. Thứ ba, lãi suất đang đối mặt với áp lực tăng.
Ổn định mặt bằng lãi suất ở mức thấp nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, qua đó góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng đang là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của Chính phủ hiện nay. Tuy nhiên, diễn biến của lãi suất trong thời gian tới lại phụ thuộc rất nhiều vào ý chí của Chính phủ khi buộc phải dành sự ưu tiên của mình vào một trong 2 mục tiêu trên, kiểm soát lạm phát hay thúc đẩy tăng trưởng GDP.
Vậy, thực trạng của lãi suất trong năm 2016 và quý I và II năm 2017 ra sao? Cũng như đưa ra dự báo về xu hướng của đường đi lãi suất trong các tháng còn lại của năm 2017?
1. Thực trạng lãi suất năm 2016 và Quý I và II năm 2017
Kết thúc năm 2016, mặt bằng lãi suất trên thị trường tài chính cơ bản được giữ ổn định, đặc biệt, lãi suất cho vay có xu hướng giảm nhẹ với một số nhóm đối tượng khách hàng phù hợp với chủ trương của Chính phủ về giảm lãi suất cho vay, nhằm khuyến khích sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế. Bước sang năm 2017, mặt bằng lãi suất tiếp tục được duy trì ổn định như năm 2016, lãi suất huy động và cho vay các kỳ hạn dài biến động tăng khoảng 0,5-1%.
Trong 3 quý đầu năm 2016, lãi suất liên ngân hàng có xu hướng giảm nhẹ so với thời điểm đầu năm. Kể từ cuối quý I/2016, thanh khoản hệ thống duy trì tích cực, lãi suất liên ngân hàng giảm sâu về mức thấp kỉ lục trong vài năm trở lại đây. Tại một số thời điểm cuối tháng 09/2016, lãi suất qua đêm chỉ dao động trong khoảng 0,37-0,42%. Nguyên nhân là do: (i) lũy kế 9 tháng đầu năm, tăng trưởng huy động cao hơn so với tăng trưởng tín dụng (huy động tăng 14,40% so với dư nợ 11,64%) khiến thanh khoản của các ngân hàng dư thừa trong thời gian này; (ii) NHNN tăng dự trữ ngoại hối bằng việc mua vào USD với giá trị lớn (khoảng 11 tỷ USD) làm tăng lượng cung tiền nội địa. Tuy nhiên, đến cuối năm 2016, lãi suất liên ngân hàng có xu hướng tăng trở lại do nhu cầu vay vốn tăng cao vào dịp cuối năm, các ngân hàng đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng so với huy động.
Mặc dù thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng khá dồi dào nhưng lãi suất huy động và cho vay bình quân toàn thị trường cuối năm 2016 vẫn chưa giảm được so với kỳ vọng. Nguyên nhân là do: (i) dư thừa thanh khoản trên TT2 là trong ngắn hạn, trong khi cơ cấu cho vay của các ngân hàng chủ yếu là trung, dài hạn; (ii) có sự phân hóa trong khả năng huy động vốn trên TT2 khi một số TCTD gặp khó khăn trong việc vay vốn trên TT2 do thiếu tín nhiệm và không đủ tài sản đảm bảo để vay đối ứng. Do đó, các ngân hàng nhỏ, mất cân đối vốn phải huy động trên TT1 với lãi suất cao hơn các NHTM lớn dẫn đến tăng mặt bằng lãi suất bình quân toàn thị trường.
Cụ thể, mặt bằng lãi suất huy động tăng nhẹ so với năm 2015 khoảng 0,5-1%, chủ yếu là các kỳ hạn dài trên 12 tháng, trong đó có hai đợt điều chỉnh tương đối rõ vào quý I và cuối quý IV. Đến cuối năm 2016, lãi suất huy động các kỳ hạn ngắn dưới 6 tháng phổ biến trong khoảng 4,5-5,4%/năm, từ 6 tháng đến dưới 12 tháng trong khoảng 5,4-6,5%/năm, từ 12 tháng trở lên trong khoảng 6,5-7%/năm.
Nguyên nhân chính của việc tăng lãi suất trong quý I/2016 đến từ một số diễn biến của hệ thống ngân hàng kéo theo nhu cầu tăng cường huy động vốn như: (i) tăng trưởng huy động (13,59% trong năm 2015) thấp hơn tăng trưởng tín dụng (17,3% trong năm 2015) kéo theo tỷ lệ LDR của một số ngân hàng tại thời điểm này ở mức khá cao; (ii) Thông tư 06 sửa đổi một số điều Thông tư 36 theo hướng thắt chặt hơn quy định về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn; (iii) một số ngân hàng nợ xấu cao tăng lãi suất huy động để có nguồn vốn đầu vào làm tấm đệm cho các khoản phải thu.
Đối với đợt điều chỉnh tăng nhẹ lãi suất vào cuối quý IV, ngoài cạnh tranh huy động vốn, mặt bằng lãi suất huy động còn chịu thêm áp lực từ tỷ giá tăng mạnh từ sau bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ và quyết định tăng lãi suất trong tháng 12 của FED. Ngoài ra, nhu cầu đảm bảo thanh khoản của ngân hàng vào đợt cuối năm cũng khiến lãi suất huy động tăng nhẹ.
Bên cạnh đó, nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay các kỳ hạn dài, các ngân hàng cũng tích cực đẩy mạnh huy động nguồn vốn trung dài hạn như VPBank tăng hơn 24.400 tỷ chứng chỉ tiền gửi với kỳ hạn chủ yếu trên 1 năm đến dưới 5 năm, SHB tăng hơn 5.500 tỷ kỳ phiếu trong năm 2016, điều này cũng tạo áp lực tăng lên mặt bằng lãi suất huy động trong năm 2016.
Mặc dù lãi suất huy động tăng nhẹnhưng lãi suất cho vay trong năm 2016 khá ổn định, thậm chí giảm nhẹ đối với nhóm khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh. Theo NHNN, mặt bằng lãi suất cho vay phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6-7%/năm đối với ngắn hạn và 9-10%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8-9%/năm đối với ngắn hạn; 9,3- 11%/năm đối với trung và dài hạn. Đối với nhóm khách hàng tốt, tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, lãi suất cho vay có thể từ 4-5%/năm. Điều này phù hợp với chủ trương của Chính phủ về giảm lãi suất cho vay nhằm khuyến khích sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế.
Trong quý I/2017, lãi suất huy động ghi nhận mức tăng cục bộ khoảng vài chục điểm cơ bản ở các kỳ hạn tại một số ngân hàng vừa và nhỏ. Tuy nhiên, khi xét chung cả hệ thống, mặt bằng lãi suất huy động không có nhiều thay đổi so với đầu năm, trần lãi suất huy động 5,5% cho các kỳ hạn dưới 6 tháng được đảm bảo, phổ biến trong khoảng 4,3%- 5,5%/năm. Lãi suất huy động từ 6 tháng đến dưới 12 tháng trong khoảng 5,3% - 7%/năm, từ 12 tháng trở lên trong khoảng 6,5% - 8%/năm.
Trong khi đó, mặt bằng lãi suất cho vay khá ổn định, phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6%-7%/năm đối với ngắn hạn và 9%- 10%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8%- 9%/năm đối với ngắn hạn; 9,3%-11%/năm đối với trung và dài hạn. Đối với nhóm khách hàng tốt, tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, lãi suất cho vay từ 4%- 5%/năm.
Áp lực tăng lãi suất huy động cục bộ tại một số ngân hàng có thể đến từ việc một số ngân hàng trong giai đoạn gần đây liên tục phát hành chứng chỉ tiền gửi với lãi suất cao, làm gia tăng đáng kể áp lực cạnh tranh huy động nhằm mục đích tăng vốn và đáp ứng các tỷ lệ an toàn.
Bên cạnh đó, đối với các ngân hàng này, áp lực còn đến từ việc thiếu hụt thanh khoản. Cùng lúc lãi suất liên ngân hàng luôn được giữ ở mức cao khiến các ngân hàng này gặp khó khăn với việc tiếp cận nguồn vốn trên thị trường liên ngân hàng. Ngoài ra, tăng trưởng tín dụng tốt hơn cùng kỳ cũng được xem là một trong số nguyên nhân khiến nhu cầu huy động tăng trưởng.
Mặc dù vậy, áp lực tăng lãi suất huy động chỉ đang diễn ra cục bộ tại các một số ngân hàng. Tình trạng thiếu hụt thanh khoản không diễn ra tại các ngân hàng lớn và Ngân hàng Nhà nước vẫn còn dư địa để điều tiết thị trường và đảm bảo định hướng duy trì mặt bằng lãi suất thấp để hỗ trợ tăng trưởng trong bối cảnh thị trường ngoại hối dần bình ổn trở lại sau lần tăng lãi suất gần nhất của FED vào tháng 3.
Lãi suất Trái phiếu Chính phủ quý I/2017 kỳ hạn 5 năm giảm còn 5,1%/nămso với tháng 12/2016 là 5,4%/năm. Lãi suất trái phiếu Chính phủ các kỳ hạn khác đều có xu hướng giảm nhẹ theo từng tháng. Nguyên nhân là vì các tổ chức tài chính, bảo hiểm và ngân hàng có nhu cầu đầu tư nhiều hơn vào các kỳ hạn dài (15 năm)với lãi suất hấp dẫn thay vì đầu tư kỳ hạn ngắn với lãi suất cao hơn. Đến hết tháng 3/2017, chưa phát hàn Trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 3 năm. Kỳ hạn 10 năm trở lên được Chính phủ tập trung ưu tiên nên kỳ hạn phát hành trung bình của Trái phiếu Chính phủ quý 1/2017 là 12,3 năm.
Tính đến ngày 25/5, tăng trưởng tín dụng của ngành Ngân hàng đã đạt 6,53%, cao hơn so với cùng kỳ những năm 2016, 2015. Mặc dù tăng mạnh hơn các năm trước, tốc độ tăng đã có phần chậm lại. Nhờ vậy, thanh khoản cải thiện đáng kể tạo điều kiện hạ lãi suất. 6 tháng qua thị trường tiền tệ về cơ bản tích cực, ổn định. Những tháng đầu năm có hiện tượng một số ngân hàng tăng lãi suất huy động, chủ yếu là ở các kỳ hạn trên 12 tháng.
Trong đó, đáng chú ý, tốc độ tăng trưởng tín dụng vào bất động sản đã chậm lại. Các chương trình tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ như cho vay nông nghiệp công nghệ cao, cho vay ngành chăn nuôi… đã được Thống đốc NHNN chỉ đạo phối hợp hỗ trợ kịp thời.
Chỉ số CPI bất ngờ giảm mạnh trong tháng 5/2017 do sự lao dốc của giá thịt lợn đang mang đến nhiều cơ hội để NHNN duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng ở mức vừa phải. Làn sóng tăng lãi suất huy động và phát hành chứng chỉ tiền gửi lãi suất cao của một số ngân hàng có quy mô vừa và nhỏ hồi giữa tháng 3, đầu tháng 4 vừa qua (chủ yếu để đối phó với Thông tư 06 của NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 36 về các giới hạn an toàn, tỷ lệ an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài) đã tạm lắng dịu.
Đến thời điểm này, thanh khoản hệ thống dồi dào hơn, khiến nhu cầu vay giảm mạnh, lãi suất liên ngân hàng tiếp tục giảm sâu, chủ yếu ở các kỳ hạn ngắn. Lãi suất qua đêm tuần qua đã có thời điểm giảm xuống 1,8% lần đầu tiên sau gần 4 tháng. Chốt tuần, lãi suất qua đêm và 1 tháng cùng giảm 43 điểm cơ bản, xuống tương ứng 2,27% và 2,47%. Trong khi đó lãi suất 3 tháng tăng nhẹ 7 điểm cơ bản, lên 4,27%.
Trên thị trường mở, NHNN cũng không phải sử dụng nhiều công cụ reverse. Trong cả tuần vừa qua (29/5-2/6/2017), NHNN chỉ phát hành 2 trong tổng số 5 phiên đấu thầu với tổng khối lượng phát hành ra 1.676 tỷ đồng. Với 2.175 tỷ đồng đáo hạn, NHNN hút ròng 499 tỷ đồng, giảm khối lượng OMO lưu hành xuống 1.676 tỷ đồng.
Trên thị trường 1, lãi suất huy động cũng bắt đầu giảm nhẹ ở các kỳ hạn ngắn dưới 3 tháng với mức giảm khoảng 10 điểm cơ bản. Các kỳ hạn dài hơn vẫn giữ nguyên do nhu cầu huy động vốn dài hạn của các ngân hàng vẫn cao nhằm đảm bảo các tỷ lệ an toàn vốn.
2. Xu hướng lãi suất 2 quý còn lại của năm 2017
Với nguồn lực của các ngân hàng thương mại với các tín hiệu của thị trường như thị trường chứng khoán, bất động sản và các chỉ số về kinh tế vĩ mô, sự quan tâm của Chính phủ đối với các doanh nghiệp, đặc biệt thực hiện Nghị quyết 35 của Chính phủ về hỗ trợ doanh nghiệp và các chiến lược thu hút khách hàng của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, lãi suất từ nay đến cuối năm Việt Nam đồng ổn định thì lãi suất có thể giảm từ 0,5 đến 1% ở các kỳ hạn so với năm 2016.
Tuy nhiên, Cùng với việc kỳ vọng về lạm phát và tỷ giá gia tăng, các ngân hàng phải cân đối nguồn vốn để giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn theo lộ trình, đây sẽ là những thách thức đối với việc giữ ổn định lãi suất trong những tháng cuối năm. Với thị trường hiện nay, việc ổn định mặt bằng lãi suất những tháng còn lại của năm 2017 sẽ chịu nhiều thách thức hơn năm 2016, do nhiều nguyên nhân như kỳ vọng về lạm phát và tỷ giá gia tăng khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) dự kiến tăng lãi suất ít nhất 3 lần trong năm nay. Nợ xấu chưa được xử lý triệt để tiếp tục là rào cản lớn cho hạ lãi suất, khiến lãi suất huy động có sức ép tăng cao hơn mức tăng của năm ngoái. Bên cạnh đó, các ngân hàng tiếp tục phải cân đối nguồn vốn để đảm bảo theo lộ trình giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn xuống còn 40% kể từ 1/1/2018. Tính đến 31/12/2016, tỷ lệ này của toàn hệ thống chỉ đạt khoảng 35%, và vẫn còn một số ngân hàng vượt quá quy định này của NHNN.
Để ổn định mặt bằng lãi suất cho vay, hệ thống ngân hàng cần tiếp tục đẩy mạnh việc xử lý nợ xấu và tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng. Thêm vào đó, cần giữ chênh lệch lãi suất USD và VND ở mức hợp lý. Với kỳ vọng lạm phát trung bình ở mức 4%, kỳ vọng tỷ giá tăng khoảng từ 1-2%, hiện tại lãi suất huy động phổ biến (trên 12 tháng) xung quanh mức 7% vẫn đảm bảo có lợi cho VND. Trong khi đó, chênh lệch lãi suất cho vay USD và VND khoảng 5,2%, lợi ích nghiêng về vay bằng VND.
Liên quan đến áp lực từ tỷ giá, tác giả dự báo trong năm 2017, tỷ giá chịu áp lực lớn nhất từ phía cầu ngoại tệ do sức ép nhập siêu gia tăng (dự báo cán cân thương mại có thể thâm hụt ở mức tương đương 3,5% tổng kim ngạch xuất khẩu).
Về dài hạn, với lộ trình tăng lãi suất thêm nhiều lần của FED trong các năm tiếp theo với mục tiêu nâng lên mức 3% vào cuối năm 2019, tỷ giá có thể sẽ chịu áp lực lớn hơn. Đặc biệt là xu hướng mất giá mạnh của đồng Nhân dân tệ sẽ tác động lớn đến kinh tế Việt Nam do thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc đang có xu hướng tăng, từ mức 23,7 tỷ USD trong năm 2013 lên mức 28 tỷ USD trong năm 2016. Nếu so với GDP, thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc là 14%, cao hơn nhiều mức 2% thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc.
Tuy nhiên, áp lực với tỷ giá có thể được giảm nhờ nguồn cung ngoại tệ và yếu tố quốc tế. Cụ thể là nguồn cung ngoại tệ dồi dào đến từ nguồn vốn FII (mua bán sáp nhập) và FDI tăng mạnh. Chỉ số Bloomberg Dollar Index nhiều phiên giảm liên tiếp, giảm áp lực đáng kể lên tỷ giá VND/USD. Ngoài ra, việc FED tăng lãi suất trong ngắn hạn cũng chưa gây áp lực ngay đối với tỷ giá do hiện nay chênh lệch giữa lãi suất VND và USD vẫn nghiêng về việc nắm giữ VND (hiện đang ở mức 5,2%).
Sau áp lực từ lạm phát và tỷ giá cũng như động thái đẩy lãi suất phát hành chứng chỉ tiền gửi dài hạn lên cao của một số ngân hàng trong quý I, mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường đã trở lại trạng thái khá ổn định kể từ đầu tháng 4 đến nay.
Ngoại trừ một số ngân hàng nhỏ như Bản Việt, GPBank, Nam Á tăng nhẹ lãi suất trung hạn từ 12 tháng trở lên, hầu hết các ngân hàng đều ổn định mặt bằng lãi suất như hiện tại, nhất là ở các kỳ hạn ngắn, thậm chí có ngân hàng còn giảm lãi suất đầu vào để giảm chi phí huy động vốn trong bối cảnh đầu ra chưa tăng trưởng tốt như mục tiêu đề ra.
Không phải ngẫu nhiên mà mặt bằng lãi suất hiện nay ổn định trở lại sau giai đoạn chịu nhiều áp lực kể từ cuối năm trước cho đến đầu quý I vừa rồi:
- Thứ nhất, áp lực thanh khoản trong giai đoạn đầu năm chỉ diễn ra cục bộ ở một số ngân hàng, nhất là một số ngân hàng cận kề tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn đã giảm từ 60% xuống còn 50% từ đầu năm 2017, còn nhìn chung thanh khoản của đa số ngân hàng vẫn khá ổn định.
- Thứ hai, việc bơm hút nhịp nhàng trên thị trường mở (OMO) và tín phiếu của NHNNđể hỗ trợ thanh khoản cũng giúp các ngân hàng không phải chịu quá nhiều áp lực đẩy lãi suất huy động trên thị trường 1 (dân cư và tổ chức). Thậm chí một số ngân hàng có nguồn vốn dồi dào tiếp tục rót vốn mạnh vào thị trường trái phiếu.
Thống kê cho thấy tính từ đầu năm đến gần cuối tháng 5/2017 đã có hơn 102.000 tỷ đồng đổ vào thị trường trái phiếu chính phủ, tỷ lệ giá trị trúng thầu trên giá trị gọi thầu ở mức tương đối cao là 76%. Đáng chú ý là tỷ lệ giá trị đăng ký trên giá trị gọi thầu lên đến 235%, riêng kể từ đầu tháng 4 đến nay, tỷ lệ này đến 250%, cho thấy nguồn vốn các ngân hàng gần đây đã dồi dào trở lại, do đó mới mạnh dạn đổ tiền vào thị trường trái phiếu.
Một số dự báo trước đây cho rằng lạm phát và tỷ giá sẽ là 2 yếu tố gây áp lực đáng kể lên mặt bằng lãi suất trong năm 2017, tuy nhiên với những gì đang diễn ra cho thấy 2 yếu tố này vẫn trong tầm kiểm soát. Lạm phát dù tăng nhanh trong tháng đầu năm nhưng kể từ đó đã giảm dần và ngày càng cho thấy tín hiệu ổn định. Cụ thể, nếu như tháng 1 chỉ số giá tiêu dùng so với tháng trước tăng đến 0,46%, thì tháng 2 và 3 chỉ còn tăng lần lượt là 0,23% và 0,21%, đến tháng 4 vừa rồi không tăng so với tháng 3, tháng 5 giảm 0,53% so với tháng trước và tháng 6 tăng trở lại 0,46% so với tháng trước nhưng cũng chỉ tăng 2,4% so với cùng kỳ.
Về tỷ giá USD/VND, dù theo xu hướng đi lên nhưng vẫn tăng chậm và trong tầm kiểm soát của NHNN. So với đầu năm, tỷ giá trung tâm chỉ mới tăng gần 1%, trong khi tỷ giá mua bán tại các NHTMvà trên thị trường tự do thậm chí còn giảm so với đầu năm nay.
Lãi suất đã vượt qua "sóng gió" trong giai đoạn đầu năm, thường là giai đoạn căng thẳng về nguồn vốn kinh doanh và thanh khoản của các ngân hàng cũng chịu nhiều áp lực, thì kỳ vọng lãi suất trong thời gian tới tiếp tục ổn định hoặc thậm chí giảm thêm là không phải không có cơ sở, nhất là khi nguồn vốn huy động trong quý III và quý IV của các ngân hàng thường tăng trưởng nhanh hơn so với giai đoạn đầu năm.
Nếu như lạm phát và tỷ giá tiếp tục ổn định và nằm trong tầm kiểm soát của nhà điều hành thì các ngân hàng càng có điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn tiền gửi VND. Cần lưu ý là lãi suất huy động trên thị trường 1 của nhóm 4 NHTM nhà nước Agribank, BIDV, Vietinbank, Vietcombank vẫn duy trì ổn định ở mức thấp kể từ tháng 9 đến nay, thời điểm các ngân hàng này điều chỉnh giảm lãi suất huy động, dù vậy huy động vốn vẫn có sự tăng trưởng.Thống kê báo cáo tài chính quý I cho thấy tiền gửi khách hàng của BIDV tăng 5%, Vietinbank tăng 1,8%, Vietcombank tăng 3,2%. Việc 3 ngân hàng này duy trì lãi suất ổn định ở mức thấp hơn so với mặt bằng chung của thị trường là rất quan trọng, vì nguồn tiền gửi từ khách hàng ở những ngân hàng này khi đó có thể chảy sang những ngân hàng nhỏ với lãi suất cao hơn một ít, do đó giúp các ngân hàng nhỏ đảm bảo được thanh khoản mà không cần tăng lãi suất lên cao hơn nữa. Thực tế thời gian qua cho thấy lãi suất của các NHTM nhà nước gần như là công cụ được sử dụng để định hướng lãi suất thị trường.
Nếu lãi suất huy động đầu vào ổn định thì sẽ là cơ sở để lãi suất cho vay ổn định theo hoặc thậm chí là giảm thêm theo định hướng của cơ quan điều hành. Trong cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 4 và tháng 5/2017 vừa qua, mục tiêu phấn đấu giảm thêm lãi suất cho vay tiếp tục được đặt ra, theo đó Chính phủ yêu cầu NHNN tiếp tục thực hiện các giải pháp ổn định mặt bằng lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và thị trường tiền tệ, trên cơ sở khả năng kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường ngoại tệ, phấn đấu giảm lãi suất cho vay.
Rõ ràng với tăng trưởng GDP quý I ở mức quá thấp, thì áp lực tăng trưởng sẽ đè nặng lên 3 quý còn lại. Trong bối cảnh chính sách tài khóa đang bị hạn chế, chính sách tiền tệ có thể cần phải tiếp tục được nới lỏng để hỗ trợ tăng trưởng là điều cần thiết. Theo đó các ngân hàng phải phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng trong điều kiện lãi suất ổn định. Có như thế mới kích thích được doanh nghiệp vay vốn, nhất là khi mặt bằng lãi suất cho vay hiện nay vẫn còn cao hơn một ít so với các nước trong khu vực.