Dự báo mới nhất của IMF nhấn mạnh: Những tổn thất do dịch Covid-19 gây ra cho kinh tế toàn cầu trong năm 2020 thậm chí có thể nhiều hơn năm 2009. Kinh tế toàn cầu có nguy cơ đối mặt với tăng trưởng âm và sẽ đòi hỏi một cách phản ứng chưa từng có tiền lệ.
Áp lực và thách thức chưa từng có…
Đại dịch Covid-19 là thảm họa dịch bệnh và thách thức y tế, cũng như tạo áp lực quản lý xã hội và phát triển kinh tế chưa từng có cho cộng đồng các nước, các doanh nghiệp trên toàn thế giới, cũng như cho Việt Nam.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Những hệ lụy tiêu cực của đại dịch ngày càng sâu đậm và toàn diện, gia tăng cùng sự kéo dài thời gian lan rộng và thách thức năng lực kiểm soát, khống chế dịch bệnh cả ở cấp vĩ mô và vi mô.
Dự báo mới nhất của IMF nhấn mạnh: Những tổn thất do dịch Covid-19 gây ra cho kinh tế toàn cầu trong năm 2020 thậm chí có thể nhiều hơn năm 2009. Kinh tế toàn cầu có nguy cơ đối mặt với tăng trưởng âm và sẽ đòi hỏi một cách phản ứng chưa từng có tiền lệ.
Theo WB, các nền kinh tế đang phát triển năm 2020 sẽ sụt giảm 2% GDP thay vì tốc độ tăng trưởng bình quân liên tục 4,6%/năm trong suốt 60 năm trước đây. Còn Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) thì khẳng định kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng thấp hơn cả năm 2008. APEC thì khẳng định 21 nền kinh tế APEC sẽ giảm 2,7% GDP năm 2020…
Trước đó, trong nghiên cứu toàn diện đầu tiên của mình về tác động của dịch COVID-19 đối với các nền kinh tế lớn trên thế giới, được công bố ngày 2-3-2020, trên giả định trong quý 1/2020 dịch COVID-19 sẽ đạt đỉnh tại Trung Quốc và hạ nhiệt tại các nước khác, OECD khẳng định nền kinh tế toàn cầu đã có nguy cơ suy thoái rõ ràng trong quý 1/2020 và đã hạ 0,5 điểm phần trăm mức dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2020 xuống còn 2,4%, mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009. Các thị trường chứng khoán toàn cầu đã lao dốc.
OECD đã hạ 0,4 điểm phần trăm dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2020 của Italy, Nhật Bản, Nga; hạ 0,3 điểm phần trăm đối với các nền kinh tế Canada, Pháp, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Argentina; hạ 1,1 điểm phần trăm của Ấn Độ; hạ 0,6 điểm phần trăm của Nam Phi và đối với Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20); hạ 0,5 điểm phần trăm của Australia và Mexico. Tăng trưởng của khu vực sử dụng đồng euro được dự đoán vẫn ảm đạm ở mức trung bình khoảng 1% trong năm 2020 và 2021…
Cũng theo OECD, tăng trưởng toàn cầu có thể phục hồi lên 3,3% trong năm 2021 và tăng trưởng của Trung Quốc sẽ tăng lên 6,4%. Nhưng nếu dịch bệnh diễn biến trầm trọng và kéo dài hơn, lan rộng ra khắp khu vực châu Á-Thái Bình Dương, châu Âu và Nam Mỹ, điều này sẽ làm giảm đáng kể các triển vọng của kinh tế thế giới, thì tăng trưởng toàn cầu có thể giảm xuống còn 1,5% năm 2020, chỉ bằng một nửa mức dự báo trước khi dịch COVID-19 bùng phát.
OECD khuyến nghị chính phủ các nước "hành động nhanh chóng và quyết liệt" để vượt qua dịch bệnh và có biện pháp bảo vệ thu nhập của các nhóm và doanh nghiệp dễ bị ảnh hưởng. Các chính phủ có thể cấp bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động hay chi trả các chi phí y tế liên quan đến dịch COVID-19; đồng thời, xem xét các biện pháp giảm hay hoãn thuế, nợ; giảm chi phí năng lượng cho các doanh nghiệp ở những vùng và lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề, cũng như giảm tạm thời tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng.
Theo một số nghiên cứu của Goldman Sachs, Moody's, Coface, BNP Paribas Cadif, International SOS…, dịch bệnh Covid-19 có thể khiến GDP toàn cầu giảm khoảng 0,3-0,7 điểm % năm 2020.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo dịch viêm phổi có thể làm giảm 0,1-0,2% tăng trưởng toàn cầu trong năm 2020. Trong khi đó, tăng trưởng của Trung Quốc được dự báo sẽ giảm xuống còn 5,6%, thấp hơn 0,4% so với dự báo được IMF đưa ra trong tháng 1-2020.
Theo Báo cáo đánh giá sơ bộ của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): "Covid-19 và thế giới việc làm: Tác động và giải pháp", cuộc khủng hoảng kinh tế và lao động do dịch Covid-19 gây ra có thể làm tăng thêm 25 triệu người thất nghiệp trên toàn cầu, so với số lượng người thất nghiệp sẵn có là 188 triệu trong năm 2019. Hàng triệu người lao động sẽ rơi vào tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, giảm giờ làm và tiền lương, và rớt xuống dưới chuẩn nghèo. Nhóm lao động tự làm ở các nước đang phát triển, vốn thường là tấm đệm giúp làm nhẹ bớt độ xung của những tác động do những thay đổi đột ngột mang lại, thì lần này sẽ không còn tác dụng vì những hạn chế di chuyển đối với con người và hàng hóa. Giảm số lượng việc làm đồng nghĩa với việc mất đi nguồn thu nhập lớn cho người lao động, ước tính con số này tương đương từ 860 tỷ USD đến 3,4 nghìn tỷ USD trong năm 2020. ILO ước tính, sẽ có thêm từ 8,8 đến 35 triệu người lao động rơi vào đói nghèo trên khắp thế giới, so mức ước tính trước đây cho năm 2020 (là giảm 14 triệu người)
Trong quý 1-2020, phản ánh xu hướng khó khăn chung của các nước trên thế giới, gắn với đại dịch Covid-19, kinh tế Việt Nam cũng chịu nhiều tổn thất, khó khăn hơn so cùng kỳ năm trước theo cả hai hướng trái ngược nhau: Một mặt, tăng lạm phát, thất nghiệp và số doanh nghiệp dừng hoạt động, phá sản; dư nợ tín dụng dự kiến bị ảnh hưởng bởi dịch lên đến khoảng 2 triệu tỉ đồng, chiếm khoảng 23% dư nợ toàn hệ thống, tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với hoạt động ngân hàng…Mặt khác, giảm về vốn đăng ký và về số lao động của các doanh nghiệp đăng ký mới; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động và số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế (lần đầu tiên sau hàng thập kỷ, số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường lớn hơn số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới; đồng thời, giảm lượng du khách quốc tế, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, số vốn FDI tăng thêm và vốn góp và mua cổ phần. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện và xuất khẩu quý I/2020 đạt mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020. Hàng loạt các hoạt động lễ hội, du lịch và học tập, giao lưu tụ tập đông người bị đóng cửa; thu hẹp tối đa các hoạt động vận tải, bán lẻ, ngoại thương, đầu tư, tài chính - ngân hàng. Thu Ngân sách Nhà nước cũng giảm sút, trong khi nhiệm vụ chi đột xuất cho chống dịch bệnh ngày càng tăng lên. Đặc biệt, tăng sự đứt gãy và gián đoạn một số chuỗi cung ứng đầu vào và tiêu thụ đầu ra của một số mặt hàng, ngành chủ lực của Việt Nam đang chịu phụ thuộc cao vào thị trường bên ngoài.
Trước mắt, tình hình kinh tế-xã hội sẽ còn nhiều khó khăn, gắn với kết quả ngăn chặn dịch bệnh Covid-19 cả ở phạm vi quốc gia và quốc tế. Theo Tổng cục Thống kê, khoảng 42% số doanh nghiệp được khảo sát gặp khó khăn trong kinh doanh quý I-2020; và 25,9% số doanh nghiệp dự báo kinh doanh trong quý II/2020 sẽ khó khăn hơn quý I-2020. Đặc biệt, một kết quả khảo sát nhanh của VCCI mới đây, tác động của đại dịch đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là rất nghiêm trọng. Gần 85% doanh nghiệp cho biết dịch bệnh đã làm cho thị trường tiêu thụ của họ bị thu hẹp, gần 60% bị thiếu vốn và đứt dòng tiền kinh doanh. Có 40% cho biết thiếu nguyên liệu và 43% phải thu hẹp quy mô lao động do thiếu việc làm. 82% cho rằng doanh thu năm 2020 của họ sẽ bị sụt giảm so với năm 2019, trong đó 30% doanh nghiệp dự báo có thể tụt giảm tới 30-50% và 22% sẽ tụt giảm trên 50%. VCCI dự báo, nếu tình hình dịch bệnh vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, thì có tới gần 30% số doanh nghiệp được khảo sát chỉ có thể duy trì hoạt động được không quá 3 tháng, 50% doanh nghiệp chỉ trụ được nửa năm. Trên 75% số doanh nghiệp thì báo sẽ phải thu hẹp quy mô lao động và có tới gần 10% số doanh nghiệp phải giảm quy mô lao động tới 50% so với hiện nay. Chỉ có chưa đầy 1% số doanh nghiệp gia tăng lao động. Hàng triệu lao động sẽ có nguy cơ mất việc làm trong những tháng tới đây, nhất là lao động kỹ năng còn thấp trong các ngành công nghiệp dệt may, da dày, điện tử …VCCI cho rằng cùng với các giải pháp ngắn hạn như tập trung phòng, chống dịch bệnh, cần hỗ trợ duy trì sản xuất kinh doanh bằng chính sách tài khoá, chính sách tín dụng, chính sách lao động, tiền lương và công đoàn, mà điển hình là đề nghị không điều chỉnh tăng lương tối thiểu vùng năm 2021....
Tuy nhiên, theo Báo cáo Đông Á và Thái Bình Dương thời COVID-19 vừa được Ngân hàng Thế giới công bố chiều 31-3, nền kinh tế Việt Nam quý I/2020, mức tăng trưởng kinh tế là 3,82% GDP, dù là mức thấp nhất trong 11 năm qua của Việt Nam, nhưng lại là con số cao nhất trong số các nước có được số liệu đến thời điểm này. Đây là kết quả hội tụ và tín hiệu tích cực phản ánh những nỗ lực chung cải thiện môi trường đầu tư từ năm 2019 và niềm tin thị trường, niềm tin đầu tư...
Triển vọng và tư duy mới về kinh tế thời gian tới
Sau đợt cao điểm chống đại dịch kéo dài từ ngày 1 đến 22-4, kết quả thu được thật đáng phấn khởi: Cả nước hiện không có người tử vong; liên tục 7 ngày không có ca mắc mới và chữa khỏi bệnh cho 222/268 người nhiễm bệnh ở cơ sở chữa bệnh cả tuyến y tế cấp Trung ương và địa phương. Việt Nam đang được cộng đồng thế giới đánh giá cao cả về năng lực đối phó, kiểm soát đại dịch Covid19 và nỗ lực duy trì động lực tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Chính phủ đã, đang và sẽ tiếp tục có nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người dân chịu ảnh hưởng của đại dịch, như các gói hỗ trợ về tiền tệ (khoảng 300.000 tỷ đồng), gói hỗ trợ về tài khóa (khoảng 180.000 tỷ đồng), gói hỗ trợ an sinh xã hội (trên 62.000 tỷ đồng), gói hỗ trợ giá điện (khoảng 12.000 tỷ), gói hỗ trợ giá viễn thông (khoảng 15.000 tỷ đồng).
Khi dịch bệnh đang dần được kiểm soát tốt hơn và chưa biết khi nào mới chấm dứt hoàn toàn, việc tái khởi động nền kinh tế là điều cần thiết. Vì vậy, từ sáng ngày 23-4, các hoạt động kinh tế-xã hội trên cả nước đã từng bước phục hồi về lĩnh vực, phạm vi và công suất hoạt động bình thường, trên cơ sở bảo đảm việc đeo khẩu trang và giữ khoảng cách an toàn y tế. Theo chỉ đạo của Chính phủ, các kịch bản phục hồi kinh tế hậu Covid-19 đang được xây dựng và xúc tiến triển khai ở cả cấp quốc gia, ngành và địa phương, dựa theo 3 nhóm tiêu chí phân biệt mức độ lây lan (nguy cơ cao, nguy cơ và nguy cơ thấp) của dịch bệnh Covid-19.
Dịch bệnh chưa phải kết thúc và những hệ lụy của đại dịch Covid-19 là to lớn, toàn diện; đặc biệt, làm giảm cả tổng cung và tổng cầu cả cấp vĩ mô và vi mô, quốc gia và quốc tế…Vì vậy, các nhiệm vụ và giải pháp kinh tế cần có cho cả nước và mỗi địa phương, lĩnh vực trong thời gian tới cần được thực hiện đồng bộ và đáp ứng cả 2 mục tiêu: Tiếp tục kiểm soát an toàn dịch bệnh; đồng thời, điều tiết để "lò xo kinh tế" bị nén trong thời gian qua bung ra đúng lúc, đúng hướng và hiệu quả cao.
Theo đó, cần ưu tiên nhận diện và kịp thời có những thay đổi cả trong tư duy, cũng như trong phương thức quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp, theo tâm thế mới "sống chung với dịch bệnh", thực hiện "kinh doanh an toàn". Trước mắt, đề cao sự linh hoạt thích ứng với thị trường và bối cảnh mới, với yêu cầu tăng cường tiêu chuẩn bảo đảm vệ sinh và phòng dịch; mở lại các hoạt động kinh doanh dịch vụ thiết yếu (riêng ở Hà Nội, trừ hai huyện Mê Linh và Thường Tín nghiêm túc thực hiện cách ly xã hội, còn lại các quận, huyện khác sẽ nới dần các hoạt động kinh tế, nhưng tiếp tục cấm một số hoạt động tập trung đông người, như quán bar, karaoke, massage, trò chơi điện tử, kinh doanh vỉa hè, các lễ hội, hoạt động thể thao, sinh hoạt tôn giáo ...). Các địa phương và các doanh nghiệp cần tập trung vào phát triển nông nghiệp, tái đàn; chủ động điều chỉnh các kế hoạch sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện thực hiện tốt và giảm thiểu các tranh chấp xẩy ra đối với các hợp đồng kinh tế đã ký kết; cải thiện các liên kết, sắp xếp lại và khắc phục các đứt gẫy chuỗi cung ứng kinh tế vĩ mô và vi mô, làm tăng đồng thời cả tổng cung và tăng tổng cầu xã hội, hướng nhiều hơn vào thị trường trong nước và đẩy mạnh sản xuất thay thế nhập khẩu, với phương châm vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" và "Hàng Việt Nam chinh phục người tiêu dùng Việt Nam"...
Đồng thời, tăng cường nắm bắt và khai thác, ứng dụng các xu hướng và thành tựu công nghệ 4.0, gia tăng các hoạt động và ứng dụng chuyển đổi số, phát triển kinh tế nền tảng và các dịch vụ phi tiếp xúc truyền thống; đẩy mạnh xử lý trực tuyến dịch vụ công; phát triển các ứng dụng hỗ trợ làm việc tại nhà, học trực tuyến và thương mại điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt và làm việc từ xa…giúp giảm thiểu sự gián đoạn khi buộc phải thực hiện cách ly và giãn cách xã hội, phong tỏa quốc gia.
Đặc biệt, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thực chất; đẩy nhanh tiến độ giải ngân đầu tư công và kiểm soát tình trạng độc quyền, lợi ích nhóm và thổi bùng khát vọng quốc gia, với tinh thần đặt lợi ích đất nước lên trên hết, quyết liệt phòng chống tiêu cực, tham nhũng; trọng dụng nhân tài và khai thác tốt các cơ hội mới từ các hiệp định thương mại tự do mới; tăng cường xúc tiến thương mại; chủ động hơn nguồn cung ứng nguyên liệu, sản xuất linh kiện, sản phẩm trung gian trong nước; nâng cao năng lực các doanh nghiệp thông qua các giải pháp hỗ trợ về tài chính, tín dụng, nguồn nhân lực, đổi mới sáng tạo và phát triển thị trường, thúc đẩy kết nối giữa các nhà sản xuất và phân phối, ngân hàng với doanh nghiệp …
Hiện tại, Chính phủ chưa đặt vấn đề điều chỉnh các chỉ tiêu kế hoạch kinh tế-xã hội 2020; dù vậy, Tổng cục Thống kê cho rằng GDP cả năm 2020 tăng trưởng 5% đã là một thành công.
Theo dự báo được Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) công bố ngày 3-4, năm 2020 tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ chỉ còn 4,8%; lạm phát ở mức 3,3%, và tiếp tục tăng lên 3,5% năm 2021. Thâm hụt tài khoản vãng lai dự kiến ở mức 0,2% GDP năm nay, trước khi khôi phục được mức thặng dư 1% GDP vào năm 2021. Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất khu vực Đông Nam Á. Động lực tăng trưởng của nền kinh tế vẫn là tầng lớp trung lưu ngày càng tăng và khu vực kinh tế tư nhân năng động. Môi trường kinh doanh trong nước vẫn đang được cải thiện, nhưng cần cải thiện chính sách để hỗ trợ hệ thống đổi mới sáng tạo.
Ngày 8/4/2020, tổ chức Fitch Ratings (Fitch) thông báo về việc giữ nguyên xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam ở mức BB và điều chỉnh triển vọng sang ổn định. Cơ sở Fitch điều chỉnh triển vọng tín nhiệm của Việt Nam từ tích cực sang ổn định phản ánh đánh giá của tổ chức này về tác động ngày càng lan rộng của đại dịch COVID-19 tới nền kinh tế toàn cầu, ảnh hưởng tiêu cực đến điều kiện tín dụng trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam, thông qua các kênh xuất khẩu, du lịch và sự giảm sút của tổng cầu. Việc Fitch xác nhận giữ nguyên bậc tín nhiệm quốc gia ở mức BB phản ánh nhận định các điểm sáng về tín dụng của Việt Nam vẫn không bị ảnh hưởng, trong đó bao gồm tiềm năng phát triển vững chắc trong trung hạn, môi trường kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định. Gánh nặng nợ chính phủ được kiểm soát ở mức thấp và khả năng tiếp cận nguồn tài chính đối ngoại thuận lợi hơn so với các quốc gia cùng nhóm xếp hạng.
Đại dịch Covid-19 tác động tiêu cực làm giảm cả tổng cung và tổng cầu của mỗi quốc gia và toàn thế giới. Vì vậy, các nhiệm vụ và giải pháp hỗ trợ kinh tế cần có cho mỗi quốc gia hậu dịch Covid-19 đều sẽ tập trung vào cả hai nhóm giải pháp đồng bộ để tăng liên kết, chống đứt gẫy chuỗi cung ứng, đồng thời tăng cả tổng cung và tăng tổng cầu xã hội.
Theo TS.Nguyễn Đức Kiên, Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng, Chính phủ đã xác định trọng tâm và lộ trình các gói hỗ trợ được thực hiện theo thứ tự ưu tiên: Hỗ trợ an sinh xã hội, hỗ trợ tài khóa và hỗ trợ tín dụng. Trước hết, chúng ta phải hỗ trợ người lao động, người nghèo, người bị tác động trực tiếp bởi dịch Covid-19. Sau khi bảo đảm an sinh xã hội sẽ tập trung thực hiện các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp. Từ tháng 5 đến tháng 10, sẽ ưu tiên tập trung chính sách tài khóa để tạo dòng tiền và tính thanh khoản để doanh nghiệp có thể tồn tại được. Sang quý IV-2020 sẽ tăng cường biện pháp tiền tệ. Chính sách tài khóa cần đi trước vì liên quan đến nguồn thu và dòng tiền của doanh nghiệp. Ðây là thời điểm các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam suy giảm mạnh do tác động của dịch bệnh cho nên chúng ta tập trung vào hai việc chính: Khôi phục lại thị trường trong nước và hỗ trợ doanh nghiệp đi tìm thị trường mới. Dịch Covid-19 làm đứt gãy chuỗi cung - cầu của nền kinh tế thế giới, hình thành chuỗi mới cho nên chúng ta dùng chính sách tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp tìm hiểu thị trường và đối tác mới. Sau đó dùng chính sách tiền tệ hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư công nghệ để có thị trường ổn định, tham gia được vào chuỗi sản xuất mới hình thành sau khi đại dịch lắng xuống…
Đại dịch Covid-19 là đại dịch lớn nhất hành tinh, làm thay đổi đời sống con người mạnh nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đặt ra thách thức toàn diện cho cả thế giới và Việt Nam; làm căng sức nén, đồng thời tạo áp lực và cơ hội mở ra những động lực mới cho tăng trưởng kinh tế cả nước, thậm chí khởi động cả việc "bắt đầu làm những điều không tưởng" như lời Thủ tướng Pháp Emmanuel Macron mới trả lời phỏng vấn Tờ Financial Times.
Dù chưa thể và không thể kỳ vọng mọi thứ ngay lập tức quay trở lại quỹ đạo bình thường, song với tinh thần cộng đồng đoàn kết xã hội và chia sẻ trách nhiệm cao nhất đã được chứng nghiệm trong đợt cao điểm chống dịch vừa qua và những bài học quý giá trong quá khứ, có nhiều cơ sở để tin rằng chúng ta tiếp tục chiến thắng cả Virut Corona, cả "Virút trì trệ". Năm 2020, Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất khu vực Đông Nam Á (như ADB đã khẳng định) và đà tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ quay trở lại vào năm 2021, với mức tăng trưởng dự kiến là 7,3%, như Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch (Mỹ) vừa dự báo...
Việt Nam đang được cộng đồng thế giới đánh giá cao cả về năng lực đối phó với đại dịch Covid19 và nỗ lực duy trì động lực tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Đại dịch cũng là dịp người dân trải nghiệm và thêm tin tưởng vào năng lực lãnh đạo của Nhà nước, năng lực và trách nhiệm chuyên môn cao của ngành y tế nước nhà và ngày càng tin yêu hơn hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ. Đây cũng là thời điểm biểu đạt tình đoàn kết và trách nhiệm cộng đồng; mỗi doanh nghiệp và người dân cần chung sức, đồng lòng cùng Chính phủ nỗ lực vượt khó, đạt bằng được mục tiêu kép trên.
TS. Nguyễn Minh Phong