Trang Thông tin điện tử Ban Kinh tế Trung ương trân trọng giới thiệu tới bạn đọc bài viết của TS. Nguyễn Đình Hậu, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ các ngành Kinh tế - Kỹ thuật, Bộ Khoa học và Công nghệ với chủ đề "Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong ngành công nghiệp vật liệu giai đoạn 2010- 2020, đề xuất cho giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045".
I. Thông tin chung về ngành công nghiệp vật liệu
Vật liệu là yếu tố có tính nền tảng, là nguyên liệu đầu vào phục vụ hoạt động sản xuất, tác động lớn đến sự phát triển của kinh tế - xã hội. Công nghiệp vật liệu là ngành kinh tế đặc biệt quan trọng đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ngành kinh tế, là cơ sở để phát triển bền vững các ngành sản xuất trong nước và là điều kiện cần thiết để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát triển ngành công nghiệp vật liệu sẽ góp phần giảm mạnh nhập khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô. Đây cũng là yếu tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tận dụng được các lợi thế từ các nguyên tắc về xuất xứ hàng hóa, nguyên vật liệu trong nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương Việt Nam đã ký kết.
Ngoài ra, phát triển công nghiệp vật liệu còn khắc phục được tình trạng xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản thô giá rẻ, tạo thêm giá trị gia tăng cho doanh nghiệp.
Theo đánh giá chung, ngành công nghiệp vật liệu trong nước ngoài một số ngành sản xuất liệu phục vụ xây dựng như xi măng, thép xây dựng… có tốc độ tăng trưởng nhanh, cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng trong nước, xuất khẩu một phần còn đại đa số chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng trọng nước. Ví dụ, đối với ngành sản xuất thép - được coi là vật liệu cơ bản của nền công nghiệp, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2010-2019 là 20% đối với thép thô và 13% đối với thép thành phẩm. Sản lượng thép thô sản xuất trong nước năm 2019 khoảng 17,46 triệu tấn, đứng thứ 15 trên thế giới trong các quốc gia sản xuất thép thô và đứng đầu Đông Nam Á về sản xuất và tiêu thụ. Tuy nhiên, các sản phẩm thép trong nước mới cơ bản đáp ứng được nhu cầu sử dụng trong ngành xây dựng (khoảng 80%), thép dùng cho chế biến chế tạo chiếm tỷ trọng nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước và đặc biệt chưa sản xuất được ở quy mô công nghiệp đối với các chủng loại thép chất lượng cao, thép hợp kim phục vụ công nghiệp chế biến, chế tạo.
Với mục tiêu chủ động một phần nguồn cung trong nước, thời gian qua Bộ KH&CN luôn chủ động, tích cực phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để tập trung đầu tư nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trong thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp vật liệu Việt Nam. Thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đã giúp các tổ chức, doanh nghiệp trong nước làm chủ công nghệ, chế tạo thành công nhiều chủng loại vật liệu phục vụ nhu cầu trong nước, giảm phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu góp phần phát triển ngành công nghiệp vật liệu Việt Nam.
II. Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong ngành công nghiệp vật liệu giai đoạn 2010-2020
II.1. Cơ chế, chính sách khoa học và công nghệ (KH&CN)
Hệ thống pháp luật về KH&CN cơ bản được hoàn thiện với 8 đạo luật chuyên ngành điều chỉnh các lĩnh vực liên quan tới hoạt động khoa học và công nghệ[1] với nhiều nội dung đổi mới, đột phá đáp ứng yêu cầu phát triển KH&CN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong đó bao gồm các cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp vật liệu.
Năm 2017, Bộ KH&CN đã trình Quốc hội thông qua Luật Chuyển giao công nghệ sửa đổi, trong đó đưa ra các giải pháp để hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp tăng cường khả năng tự chủ sản xuất trong nước, ứng dụng và đổi mới công nghệ như: hỗ trợ hoạt động liên kết, chuyển giao kết quả nghiên cứu giữa tổ chức KH&CN với doanh nghiệp; khuyến khích hợp tác triển khai các dự án đầu tư đổi mới công nghệ, khởi nghiệp sáng tạo, phát triển kết cấu hạ tầng; hỗ trợ hoạt động giải mã công nghệ; thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu ...
Nhằm quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chuyển giao công nghệ (sửa đổi), Bộ KH&CN đã chủ trì xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 76/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 trong đó quy định cơ chế quản lý, khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng, đổi mới công nghệ; nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp; nâng cao trình độ thiết kế, chế tạo trong nước nhằm thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế - kỹ thuật[2].
Ngoài các cơ chế, chính sách chung về KH&CN nêu trên, Đảng và Nhà nước thời gian qua đã ban hành một số cơ chế, chính sách về KH&CN nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp vật liệu như:
- Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã xác định vật liệu mới, hiện đại là một một trong các lĩnh vực ưu tiên phát triển, trong đó chú trọng một số lĩnh vực như: vật liệu điện tử và quang tử, vật liệu nano, vật liệu y - sinh, vật liệu tiên tiến, sử dụng nguyên liệu trong nước, đặc biệt là nguyên liệu sinh học, đất hiếm, khoáng sản quý hiếm; vật liệu có tính năng đặc biệt sử dụng trong công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, giao thông, y - dược, bảo vệ môi trường, quốc phòng, an ninh.
- Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020 đã xác định công nghệ vật liệu mới chính là một trong các hướng công nghệ ưu tiên trong đó tập trung vào việc tiếp nhận và phát triển các công nghệ vật liệu mới, hiện đại, chú trọng các vật liệu có tính năng đặc biệt sử dụng cho các ngành công nghiệp.
- Quyết định số 1318/QĐ-BKHCN ngày 05/6/2015 của Bộ trưởng Bộ KH&CN phê duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ KH&CN chủ yếu giai đoạn 2016-2020 đã xác định tập trung các nguồn lực để phát triển một số công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ liên ngành thuộc lĩnh vực vật liệu mới.
- Bộ KH&CN đã xây dựng và triển khai có hiệu quả riêng 01 Chương trình KH&CN trọng điểm cấp quốc gia theo giai đoạn 5 năm liên tục từ năm 2001 đến nay về Vật liệu mới.
- Bộ KH&CN phối hợp với các Bộ, ngành triển khai các Chương trình/Đề án KH&CN phát triển các công nghệ, vật liệu mới phục vụ ngành khai thác và chế biến khoáng sản đến năm 2025[3]; phục vụ xây dựng các công trình ven biển và hải đảo đến năm 2025[4]…
Ngoài ra, chính sách về KH&CN nhằm phát triển ngành công nghiệp vật liệu còn được lồng ghép trong Chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành: công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, giao thông, y tế, môi trường…
II.2. Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong ngành công nghiệp vật liệu
- Về tiềm lực, đầu tư cho KH&CN
Theo số liệu điều tra năm 2017[5], Việt Nam hiện có 687 tổ chức nghiêu cứu và phát triển (NC&PT) với các quy mô khác nhau trong đó bao gồm các tổ chức NC&PT hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp vât liệu, tập trung chủ yếu tại Hà Nội (48,89%) và Thành phố Hồ Chí Minh (19,07%).
Về nhân lực NC&PT, theo kết quả thống kê năm 2017, cả nước có khoảng 172.683 người tham gia hoạt động NC&PT, tăng gần 3% so với năm 2015 và tăng gần 27% so với năm 2011. Nhân lực NC&PT chủ yếu hoạt động trong các tổ chức giáo dục đại học (51,24%), trong các tổ chức NC&PT là 19,80%, trong khối các doanh nghiệp là 15,17%, còn lại hoạt động trong các tổ chức khác. Bình quân, Việt Nam có 7,02 cán bộ nghiên cứu FTE[6] trên 1 vạn dân, đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Á (sau Thái Lan và Malaysia).
Về đầu tư NC&PT, tổng chi quốc gia cho NC&PT năm 2017 là 26.368 tỷ đồng, bằng 0,52% GDP. Tỷ lệ chi cho NC&PT liên tục tăng ổn định từ 0,19% GDP năm 2011, 0,37% GDP năm 2013, 0,44% GDP năm 2015 đến 0,52% GDP năm 2017 nhờ có sự gia tăng mạnh mẽ đầu tư từ khối doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô lớn.
Bên cạnh đó, với mục tiêu nhằm tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho KH&CN để nâng cao chất lượng nghiên cứu, tạo ra và đưa nhanh các thành tựu khoa học, tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tại Quyết định số 850/QĐ-TTg ngày 07/9/2000, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án xây dựng các Phòng thí nghiệm trọng quốc gia, giao cho các Bộ, ngành quản lý trong đó có 4 Phòng thí nghiệm trọng điểm chuyên về công nghệ vật liệu gồm: Phòng thí nghiệm trọng điểm về Vật liệu và linh kiện điện tử do Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam quản lý, Phòng thí nghiệm trọng điểm về Vật liệu polymer và compozit do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý và Phòng thí nghiệm trọng điểm về Công nghệ lọc, hóa dầu; Công nghệ hàn và xử lý bề mặt do Bộ Công Thương quản lý.
2. Về tổ chức thực hiện
Để tập trung nguồn lực cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ thúc đẩy ngành công nghiệp vật liệu đạt hiệu quả cao, liên tục từ năm 2001 đến nay, Bộ KH&CN đã nghiên cứu, xây dựng và triển khai Chương trình KH&CN cấp quốc gia về công nghệ vật liệu mới theo từng giai đoạn 5 năm với các mục tiêu, định hướng nội dung bám sát chiến lược phát triển KH&CN của các thời kỳ cũng như chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chiến lược phát triển các ngành, lĩnh vực nói riêng.
Bên cạnh đó, hoạt động nghiên cứu phát triển công nghệ vật liệu còn được triển khai thông qua các Chương trình, Đề án về KH&CN khác như Chương trình KH&CN trọng điểm cấp quốc gia về năng lượng, Chương trình KH&CN trọng điểm cấp quốc gia phục vụ đổi mới, hiện đại hóa công nghệ khai thác và chế biến khoáng sản đến năm 2025, Đề án phát triển vật liệu xây dựng phục vụ các công trình ven biển và hải đảo đến năm 2025…
Ngoài ra, Bộ KH&CN còn ưu tiên bố trí kinh phí từ nguồn ngân sách KH&CN hàng năm cho các Bộ, ngành như: Bộ Quốc phòng, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam… để thực hiện các hoạt động nghiên cứu phục vụ phát triển ngành trong đó có các nghiên cứu thuộc lĩnh vực công nghiệp vật liệu theo quy định về phân cấp quản lý nhiệm vụ KH&CN.
- Về kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ
Mặc dù ngành công nghiệp vật liệu nói chung được đánh giá còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất trong nước, còn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, đặc biệt là vật liệu phục vụ các ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, năng lượng, điện tử, công nghệ thông tin… nhưng thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ nhiều tổ chức, doanh nghiệp trong nước làm chủ công nghệ, chế tạo thành công nhiều chủng loại vật liệu mới từ nguồn nguyên liệu trong nước với chất lượng tương đương với sản phẩm nhập ngoại, đáp ứng một phần nhu cầu của các ngành sản xuất. Đặc biệt, việc nghiên cứu, làm chủ công nghệ, chế tạo thành công một số chủng loại vật liệu có tính năng đặc biệt sử dụng trong an ninh quốc phòng còn giúp chủ động trong công tác bảo dưỡng, sửa chữa tiến tới chủ động trang bị khí tài, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ còn hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp làm chủ thiết kế, chế tạo thành công nhiều dây chuyền sản xuất đồng bộ, các trang thiết bị trong các nhà máy sản xuất các chủng loại vật liệu với quy mô công nghiệp với tỷ lệ nội địa hóa cao, giá thành thấp hơn nhiều so với dây chuyền, trang thiết bị nhập khẩu từ nước ngoài, chủ động nguồn cung trong nước. Điển hình như:
a. Vật liệu phục vụ ngành cơ khí, chế tạo
Đã nghiên cứu, làm chủ công nghệ, chế tạo thành công một số chủng loại vật liệu trong nước, thay thế nhập khẩu phục vụ phát triển ngành cơ khí, chế tạo như nghiên cứu, sản xuất thành công 3.525 tấn bột sắt xốp và 1.025 tấn bột sắt kỹ thuật với hàm lượng tổng sắt đạt (92-94)% cho bột sắt xốp và (96-98)% cho bột sắt kỹ thuật với cỡ hạt < 0,075mm, đạt điều kiện để chế tạo các loại thép hợp kim cao cấp phục vụ ngành cơ khí chế tạo và an ninh quốc phòng[7]; chế tạo thép Duplex và Superduplex đạt chất lượng theo tiêu chuẩn ASTM A890-1A và ASTM A890-5A đây là 02 loại thép đặc biệt dùng để chế tạo các chi tiết, linh kiện hoạt động trong điều kiện môi trường khắc nghiệt, trước đây hoàn toàn phụ thuộc vào nhập khẩu, ứng dụng sản xuất bơm với lưu lượng đến 500 m3/h hoạt động trong môi trường ăn mòn, hóa chất cho ngành dầu khí, sản xuất giấy[8]; chế tạo được 03 loại thuốc hàn thiêu kết có chất lượng tương đương với tiêu chuẩn của Hiệp hội hàn của Mỹ AWS A5.17-80 sử dụng tối đa nguồn nguyên liệu trong nước để hàn tự động dưới lớp thuốc các kết cấu thép cacbon thấp và thép hợp kim thấp[9]; chế tạo được hợp kim cứng WC-Co sử dụng để chế tạo mũi khoan đá với chất lượng tương đương với sản phẩm của các nước phát triển (G7), đây là lần đầu tiên Việt Nam chế tạo được sản phẩm này…
b. Vật liệu công nghiệp hỗ trợ
Đã nghiên cứu và chế tạo thành công nhiều chủng loại vật liệu công nghiệp hỗ trợ phục vụ nhu cầu của các doanh nghiệp sản xuất trong nước như công nghệ và vật liệu để chế tạo đế giầy cao su - phylon bằng kỹ thuật tích hợp đồng thời và ép phun đế phylon chạm đất nhiều màu[10] giúp tăng lợi nhuận doanh nghiệp trên 30% so với trước đây, cải thiện điều kiện môi trường làm việc, đảm bảo sức khỏe con người lao động, giảm tiêu hao năng lượng cho doanh nghiệp; sản xuất vải kháng khuẩn, tất cho bệnh nhân đái tháo đường[11]; sản xuất vải chống cháy từ nguyên liệu bông và polyeste[12]; vật liệu đồng xốp có cấu trúc mao dẫn, ứng dụng làm ống tản nhiệt cho các thiết bị điện tử công suất lớn[13] với hệ số truyền nhiệt đến 10.000 W/m.K, gấp gần 30 lần so với vật liệu đồng thông thường; sản xuất bột huỳnh quang ba màu và chất phụ trợ phục vụ cho sản xuất đèn huỳnh quang ống và huỳnh quang compact[14], sản phẩm đã khẳng định được chất lượng và được Công ty CP Bóng đèn Phích nước Rạng Động ký hợp đồng mua để sản xuất 4,5 triệu bóng đèn huỳnh quang bán ra thị trường phục vụ nông nghiệp và đánh bắt thủy sản…
c. Vật liệu phục vụ ngành nông nghiệp
Nghiên cứu, sản xuất được nhiều chủng loại vật liệu phục vụ phát triển ngành nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao như màng phủ bền thời tiết và xây dựng mô hình nhà lưới phục vụ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao[15]; sản xuất màng bảo quản nông sản, thực phẩm với công suất 50 tấn/năm đạt Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn vệ sinh thực phẩm QCVN 12-1:2011/BYT, chất lượng tương đương với màng MAP CE44 của Hàn Quốc; vật liệu màng bao trái trước thu hoạch của một số loại cây chủ lực[16]; vật liệu chống kết khối, thân thiện với môi trường, sử dụng cho phân bón NPK[17]; thu hồi và tách đất hiếm từ mỏ Nam Đề Gi - Bình Định với độ sạch trên 98,5% và ứng dụng để sản xuất phân bón vi lượng[18] với chất lượng vượt trội, nâng cao năng suất từ 10-15% so với phân bón thương mại trên thị trường…
d. Vật liệu phục vụ xây dựng, giao thông
Làm chủ nhiều quy trình công nghệ, sản xuất các chủng loại vật liệu mới phục vụ ngành xây dựng, giao thông từ nguồn nguyên liệu trong nước, khắc phục các khó khăn từ biến đổi khí hậu, góp phần xử lý vấn đề môi trường, tạo thêm giá trị gia tăng từ chất thải rắn như nghiên cứu, sử dụng cát mặn thay thế cát tự nhiên trong xây dựng giao thông, san lấp mặt bằng, xây dựng công trình xây dựng dân dụng; sản xuất sản phẩm cao su kỹ thuật chống rung, chịu nén dùng trong đầu máy - toa xe với hành trình 200.000 km vẫn đảm bảo chất lượng và túi nâng trục vớt, cứu hộ đường thủy[19] có sức nâng đến 50 tấn; công nghệ sử dụng tro bay thay thế đến 50% đất sét trong dây chuyền sản xuất 3.300 tấn clanhke xi măng/ngày [20]; sơn chống ăn mòn chất lượng cao sử dụng phụ gia nano cho các kết cấu thép trong lĩnh vực giao thông vận tải và xây dựng[21] với độ bền trên 15 năm trong môi trường khí quyển; chất phủ chống cháy từ một số hệ polyme hữu cơ và các chất phụ gia nhằm ứng dụng bảo vệ kết cấu, ngăn lửa cho các công trình công nghiệp và dân dụng[22] với khả năng chống cháy ở nhiệt độ 1.0000C lên đến 120 phút đối với vật liệu thép, bê tông và 60 phút đối với vật liệu gỗ; làm chủ công nghệ vật liệu và chế tạo 65.500 bộ neo cáp dự ứng lực sử dụng trong các công trình giao thông, xây dựng với giá thành cạnh tranh so với sản phẩm nhập ngoại…
e. Vật liệu phục vụ an ninh quốc phòng
Đã hỗ trợ, nghiên cứu, chế tạo thành công một số vật liệu có tính năng đặc biệt phục vụ an ninh quốc phòng qua đó nâng cao tiềm lực cho các đơn vị trong nước, chủ động sửa chữa, bảo dưỡng, nâng cấp khí tài như sản xuất nitroxenlulo để sản xuất thuốc phóng thay thế xenlulo gỗ nhập ngoại[23]; vật liệu sản xuất lốp máy bay bơm hơi không có săm dùng cho máy bay L-39[24] với chất lượng tương đương với sản phẩm cùng loại của Nga, Séc; chất dập cháy Khladon-114B2.VN có chất lượng tương đương với chất dập cháy đang nhập khẩu từ Nga hiện nay sử dụng cho máy bay quân sự[25]; chế tạo gốm quang học đa tinh thể hạt mịn KO-12 trong suốt bức xạ hồng ngoại dùng để chế tạo chi tiết chóp gió cho tên lửa với chất lượng tương đương với sản phẩm nhập khẩu[26]…
f. Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các dây chuyền, thiết bị sản xuất vật liệu phục vụ các ngành kinh tế
Đã hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp trong nước nghiên cứu, làm chủ thiết kế và công nghệ chế tạo các dây chuyền đồng bộ, các trang thiết bị chính với tỷ lệ nội địa hóa cao trong các dây chuyền sản xuất các loại vật liệu phục vụ ngành khai thác khoáng sản, dầu khí, xây dựng… như nghiên cứu, làm chủ thiết kế, chế tạo thành công dây chuyền tuyển than công suất 2 triệu tấn/năm với tỷ lệ nội địa hóa đến 95%[27]; nghiên cứu, làm chủ thiết kế và chế tạo thành công giàn khoan dầu khí tự nâng có khả năng làm việc ở độ sâu 120 m nước[28] với tỷ lệ nội địa hóa đến 40% về khối lượng; thiết kế, chế tạo thành công dây chuyền với công suất 750.000 tấn/năm xử lý Phosphogypsum (PG) của Nhà máy DAP Đình Vũ làm phụ gia xi măng và làm nguyên liệu sản xuất tấm thạch cao xây dựng góp phần xử lý chất thải rắn, bảo vệ môi trường, tạo thêm giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp sản xuất[29]; Nghiên cứu thiết kế, chế tạo dây chuyền thiết bị và công nghệ sản xuất gạch bê tông khí chưng áp công suất 200.000 m3/năm[30]…
Ngoài các kết quả nghiên cứu nêu trên, thời gian qua Bộ KH&CN còn phối hợp với các Bộ, ngành triển khai các hoạt động nghiên cứu, phát triển công nghiệp vật liệu phục vụ nhu cầu phát triển các ngành. Cụ thể: Bộ Quốc phòng, nghiên cứu, chế tạo thành công nhiều chủng loại vật liệu phục vụ cải tiến, nâng cấp, chế tạo mới khí tài, xây dựng các công trình quân sự như các loại vật liệu hợp kim, composite, gốm cao cấp, polyme tổng hợp, nhiên liệu và hóa chất có tính năng đặc biệt khác … qua đó góp phần nâng cao tiềm lực quốc phòng, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia. Bộ Công Thương, nghiên cứu chế biến, chế tạo các loại vật liệu phục vụ phát triển ngành công thương như chế biến khoáng chất tan vùng Phú Thọ làm nguyên liệu cho ngành sản xuất ceramic, sơn, dược phẩm và hoá mỹ phẩm; sản xuất clanke magnezi, clanke dolomi từ quặng magnesit và dolomit trong nước làm nguyên liệu cho vật liệu chịu lửa kiềm tính; sản xuất vật liệu nano TiO2 và nano CaCO3 từ nguồn nguyên liệu khoáng sản Việt Nam để sử dụng trong sản xuất sơn, chất dẻo và xử lý môi trường; chế tạo vật liệu nano silica từ cát trắng Việt Nam bằng công nghệ nhiệt độ thấp ứng dụng trong công nghiệp cao su và sản xuất sơn; sản xuất sứ cách điện nhằm làm tăng cường độ cho sứ cách điện từ 35 kV trở lên... Bộ Xây dựng, nghiên cứu, phát triển các vật liệu phục vụ ngành thông qua triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu về phát triển vật liệu xây và cấu kiện không nung cho công trình xây dựng; nghiên cứu phát triển vật liệu xây dựng sử dụng tro, xỉ, thạch cao đã qua xử lý từ các nhà máy nhiệt điện, nhà máy hóa chất và các cơ sở công nghiệp phát thải khác; Nghiên cứu ứng dụng công nghệ, vật liệu tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo trong các công trình xây dựng và thúc đẩy phát triển công trình xanh... Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, với đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ, kinh nghiệm và mối quan hệ với các nhà khoa học, đối tác nước ngoài tốt nên bên cạnh các nghiên cứu phát triển vật liệu có tính ứng dụng cao theo hướng vật liệu mới (hệ dẫn thuốc cấu trúc nano, linh kiện quan tử nano, vật liệu tổ hợp trên cơ sở ống carbon), năng lượng xanh (chế tạo nhiên liệu lỏng từ phế thải nông nghiệp, xúc tác chế tạo nhiên liệu lỏng từ khí tổng hợp), bảo vệ môi trường (xúc tác, hấp thụ xử lý ô nhiễm môi trường, polyme tự phân hủy)... Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam còn phát triển các hướng nghiên cứu lý thuyết, tính toán và thiết kế vật liệu mới, qua đó đã công bố được khoảng 1.000 bài báo khoa học về vật liệu trên các tạp chí quốc tế ISI trong giai đoạn 2010-2020.
4. Về công bố trên các tạp chí quốc tế
Số lượng các công bố trên các tạp chí KH&CN quốc tế có uy tín là một chỉ số được nhiều quốc gia sử dụng trong đánh giá năng suất KH&CN. Theo số liệu công bố, số bài báo của Việt Nam công bố trên các tạp chí KH&CN quốc tế giai đoạn 2014-2019 đã tăng gấp 3 lần, từ 4.071 bài năm 2014 lên 12.431 bài năm 2019, đứng thứ 5 khu vực Đông Nam Á (sau Malaysia, Singapo, Indonesia và Thái Lan). Trong lĩnh vực khoa học vật liệu, số bài công bố quốc tế năm 2019 là 1.778 bài, chiếm 14,3% tổng số công bố năm 2019.
Bên cạnh các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ góp phần thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp vật liệu trong nước, giai đoạn từ năm 2011 đến nay nêu trên, ngành KH&CN còn hỗ trợ phát triển công nghiệp vật liệu thông qua các hoạt động khác như công bố 2.069 tiêu chuẩn quốc gia lĩnh vực vật liệu với tỷ lệ hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế xấp xỉ 72%, thẩm định để công bố 50 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia lĩnh vực vật liệu; tham gia góp ý đối với 16 dự án đầu tư trong ngành công nghiệp vật liệu để làm cơ sở cho cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định (05 dự án của nhà đầu tư nước ngoài, 11 dự án của nhà đầu tư trong nước); cấp 6.031 bằng độc quyền sáng chế, 348 bằng độc quyền giải pháp hữu ích, 20.705 giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu liên quan đến lĩnh vực vật liệu…
II.3. Đánh giá chung
1. Ưu điểm
- Các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ngành công nghiệp vật liệu gần đây đã bám sát chiến lược phát triển KH&CN nói chung cũng như chiến lược phát triển KH&CN của các Bộ, ngành.
- Thông qua hoạt động KH&CN đã hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp trong nước làm chủ nhiều quy trình công nghệ tiên tiến, tạo ra một số chủng loại vật liệu mới từ nguồn nguyên liệu trong nước có chất lượng tương đương với sản phẩm nhập khẩu cùng loại cung cấp cho nhu cầu sản xuất trong nước, giảm phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu. Đặc biệt, thông qua các nhiệm vụ KH&CN có quy mô lớn đã hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp trong nước làm chủ thiết kế, chế tạo thành công nhiều dây chuyền thiết bị sản xuất, khai thác vật liệu với tỷ lệ nội địa hóa cao như dây chuyền khai thác than, sản xuất gạch không nung, sản xuất thạch cao nhân tạo từ bã thải photphogypsums, khai thác boxit…
- Thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đã hỗ trợ tăng cường tiềm lực, nâng cao trình độ cán bộ nghiên cứu trong lĩnh vực vật liệu, cập nhật được các công nghệ mới, tiên tiến của các nước phát triển.
2. Tồn tại, hạn chế
- Việc cụ thể hóa, tổ chức thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ đã được ban hành đối với ngành công nghiệp vật liệu còn lúng túng, hạn chế, chưa đồng bộ.
- Sự gắn kết giữa các Viện nghiên cứu, Trường đại học với các doanh nghiệp lĩnh vực vật liệu còn hạn chế, không ít các sản phẩm nghiên cứu vẫn gặp rất nhiều khó khăn về ứng dụng và phát triển sản phẩm. Thiếu những cơ chế chính sách đủ mạnh về việc tạo điều kiện hỗ trợ sản phẩm đầu ra được áp dụng rộng rãi trong thực tế, chưa có cơ chế chính sách hỗ trợ bảo đảm bù đắp rủi ro trong nghiên cứu, ứng dụng các kết quả nghiên cứu, chính vì vậy đã phần nào hạn chế hưởng ứng dụng của các doanh nghiệp công nghệ cao trong ngành công nghiệp vật liệu.
- Trình độ và năng lực của các doanh nghiệp sản xuất vật liệu của Việt Nam còn hạn chế. Các chủng loại vật liệu mới sản xuất trong nước xuất phát từ kết quả nghiên cứu có chất lượng chưa ổn định, chưa đáp ứng được yêu cầu cao của các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp sản phẩm cuối cùng.
- Đại đa số các kết quả nghiên cứu mới dừng ở quy mô nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp đa quốc gia có vai trò dẫn dắt thị trường dẫn đến chưa tham gia được vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
- Kinh phí đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của ngành công nghiệp vật liệu còn hạn chế. Tình trạng đầu tư còn tản mạn thiếu tập trung làm phân tán nguồn lực. Một số các doanh nghiệp sản xuất vật liệu chưa chú trọng đến hoạt động nghiên khoa học và công nghệ, chưa coi trọng đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, đổi mới công nghệ.
- Cơ chế hỗ trợ tài chính cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ còn nhiều bất cập, chưa thúc đẩy đa dạng hóa nguồn đầu tư, chưa khuyến khích và đảm bảo cho doanh nghiệp sử dụng kết quả nghiên cứu, thương mại hóa kết quả, việc sử kinh phí cho nghiên cứu cứng nhắc thiếu linh hoạt khó đáp ứng tiến độ của các doanh nghiệp công nghiệp vật liệu.
- Các tổ chức KH&CN trong ngành công nghiệp vật liệu hoạt động hiệu quả chưa cao. Số lượng doanh nghiệp khoa học và công nghệ lĩnh vực vật liệu còn rất hạn chế nên việc ứng dụng, nhân rộng kết quả nghiên cứu KH&CN vào sản xuất và đời sống chưa cao. Sự phối hợp giữa các đơn vị nghiên cứu trong ngành, lĩnh vực còn yếu.
3. Nguyên nhân
- Một số chủ trương, đường lối của Đảng về KH&CN chậm được các ngành, các cấp triển khai và cụ thể hóa trong thực tiễn dẫn đến việc bố trí các nguồn lực về tài chính, cơ sở vật chất cho KH&CN chưa đầy đủ, thiếu trọng tâm, trọng điểm. Các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp vật liệu chưa đồng bộ, đủ mạnh để thu hút các nhà đầu tư lớn đầu tư vào các doanh nghiệp sản xuất vật liệu tại Việt Nam.
- Chưa có cơ chế, chính sách ràng buộc các doanh nghiệp lớn đầu tư tại Việt Nam phải có lộ trình sử dụng nguồn nguyên vật liệu trong nước dẫn đến khó khăn cho đầu ra của các kết quả nghiên cứu.
- Đội ngũ cán bộ nghiên cứu về vật liệu còn mỏng, chất lượng chưa đồng đều, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu còn hạn chế.
- Phương thức đầu tư, cơ chế tài chính trong hoạt động KH&CN chậm đổi mới, chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động KH&CN, làm giảm năng lực sáng tạo, gây khó khăn cho các nhà khoa học khi thực hiện nhiệm vụ. Nhiều doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đầu tư cho khoa học và công nghệ, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước.
- Cơ chế và chính sách cán bộ trong hoạt động KH&CN còn nặng về hành chính hóa, làm suy giảm khả năng khuyến khích, động viên, phát huy sức sáng tạo của đội ngũ làm khoa học; làm mất dần khả năng thu hút cán bộ có năng lực vào làm việc trong các lĩnh vực KH&CN, khó thu hút các nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài.
III. Định hướng hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong ngành công nghiệp vật liệu giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
III.1. Kinh nghiệm quốc tế
1. Trung Quốc
Xác định vai trò quan trọng của ngành công nghiệp vật liệu, Trung Quốc đã đề ra các chính sách để khuyến khích phát triển công nghiệp vật liệu, đặc biệt đã xác định công nghiệp vật liệu là 1 trong 10 lĩnh vực quan trọng của chiến lược "Made in China".
Dựa trên đề cương 5 năm lần 13 và chiến lược "Made in China 2025", năm 2016, 4 Bộ gồm Bộ Công nghiệp và thông tin, Ủy ban phát triển cải cách, Bộ Công nghệ và Bộ Tài chính đã nghiên cứu, ban hành hướng dẫn phát triển ngành vật liệu mới. Một trong các tư tưởng chỉ đạo chung để phát triển ngành vật liệu mới là hệ thống công nghiệp vật liệu mới với chủ thể là doanh nghiệp, hỗ trợ bởi các trường đại học, các tổ chức nghiên cứu và tập trung đột phá về các chủng loại vật liệu mới.
Trung Quốc đề ra nhiều chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp vật liệu như: (i) Đổi mới cơ chế phối hợp tổ chức thực hiện. Thiết lập một cơ chế phối hợp cho các phòng ban, làm tốt công việc thiết kế và lập kế hoạch cấp cao, tăng cường kết nối các quỹ đặc biệt và các dự án lớn trong các phòng ban khác nhau, giải quyết một cách có hệ thống các vấn đề lớn trong phát triển ngành vật liệu mới; (ii) Tối ưu hóa dịch vụ quản lý ngành. Cải thiện hệ thống nội dung và chỉ số của ngành công nghiệp vật liệu mới trong phân loại ngành công nghiệp mới nổi chiến lược, xây dựng sản phẩm vật liệu mới, phương pháp thống kê cho doanh nghiệp và danh mục thống kê hàng hóa xuất nhập khẩu; (iii) Tăng hỗ trợ tài chính và thuế. Tăng cường kết nối thông tin của chính phủ, ngân hàng và doanh nghiệp, phát huy đầy đủ vai trò khuyến khích và hướng dẫn của các quỹ tài chính, tích cực thu hút đầu tư vốn xã hội và tăng thêm hỗ trợ cho sự phát triển của ngành vật liệu mới; (iv) Thúc đẩy hội nhập phát triển quân sự và dân sự. Chủ động hướng dẫn các doanh nghiệp đủ điều kiện phát triển và sản xuất các vật liệu quân sự mới, khuyến khích các doanh nghiệp có lợi thế tham gia nghiên cứu và sản xuất vật liệu phục vụ quân sự; (v) Tăng cường trao đổi và hợp tác quốc tế. Tối ưu hóa các dịch vụ công của chính phủ, tăng cường hợp tác quốc tế và quy định, khuyến khích các công ty sản xuất vật liệu mới phát triển tổng thể trên cả hai thị trường và dựa vào cả hai nguồn lực để nâng cao vị thế của họ trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Với chiến lược phát triển của mình, Trung Quốc đã đưa tổng giá trị sản lượng ngành vật liệu mới tăng vượt bậc. Năm 2011 tổng giá trị sản lượng của ngành vật liệu mới của Trung Quốc chỉ khoảng 0,8 nghìn tỷ NDT nhưng đến năm 2019 đã lên đến 4,5 nghìn tỷ NDT. Dự báo năm 2020, giá trị đầu ra của ngành vật liệu mới của Trung Quốc sẽ tăng gần 6 nghìn tỷ NDT và sẽ vượt 7 nghìn tỷ NDT vào năm 2021.
Định hướng phát triển công nghiệp vật liệu của Trung Quốc trong thời gian tới sẽ tập trung phát triển các chủng loại vật liệu như:
- Vật liệu cơ bản tiên tiến: Thép cơ bản và thép kỹ thuật cao, hợp kim nhôm cường độ cao, hợp kim titan cường độ cao, hợp kim magiê, polyolefin cao cấp, cao su tổng hợp đặc biệt và nhựa kỹ thuật, vật liệu xây dựng tiên tiến, vật liệu dệt tiên tiến…
- Vật liệu chiến lược quan trọng: Hợp kim đặc biệt cho các thiết bị cao cấp như hợp kim chịu nhiệt độ cao và chống ăn mòn, hợp kim ánh sáng cường độ cao. Vật liệu màng tách hiệu suất cao như màng thẩm thấu ngược và màng trao đổi ion perfluoride. Sợi carbon hiệu suất cao, sợi aramid, các loại sợi và vật liệu composite hiệu suất cao khác. Nam châm vĩnh cửu hiệu suất cao, phát quang hiệu quả cao, xúc tác cao cấp và các vật liệu chức năng đất hiếm khác. Vật liệu bán dẫn, vật liệu năng lượng mới, vật liệu y sinh…
- Vật liệu mới tiên phong: Sản xuất vật liệu với phụ gia graphene, kim loại và polymer, hợp kim ghi nhớ hình dạng, vật liệu tự phục hồi. Tập trung phát triển kim loại lỏng, chất siêu dẫn nhiệt độ thấp mới và vật liệu siêu dẫn nhiệt độ cao.
2. Thái Lan
Để phát triển thị trường vật liệu xây dựng, Chính phủ Thái Lan đã ban hành, thực hiện một số chính sách biện pháp liên quan như: (i) Đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng: Chính phủ Thái Lan coi phát triển cơ sở hạ tầng là một động lực quan trọng hàng đầu để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Trong giai đoạn 2014-2018, dù gặp nhiều khó khăn do tác động từ tình hình chính trị và kinh tế, tổng đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng của Thái Lan vẫn đạt khoảng 2.450 tỷ baht (khoảng hơn 75 tỷ USD), trong đó đáng chú ý là các dự án mở rộng nâng cấp tuyến đường sắt quốc gia (riêng tuyến đường sắt đôi đã được mở rộng thêm khoảng 2.200 km trong 10 năm qua), đường bộ cao tốc, cải tạo và mở rộng các cảng và hệ thống giao thông hàng không và đường thủy. Năm 2017, chính phủ Thái Lan đã thông qua dự luật về phát triển Hành lang kinh tế phía Đông (EEC, trong đó dự kiến sẽ đầu tư 43 tỷ USD cho cơ sở hạ tầng của EEC trong giai đoạn 5 năm đầu từ 2017-2021); (ii) Hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành "Khuôn khổ chính sách về phát triển công nghệ vật liệu quốc gia 2018-2027"; (iii) Xây dựng các đơn vị, trung tâm nghiên cứu về vật liệu như Trung tâm công nghệ vật liệu quốc gia, trung tâm công nghệ nano quốc gia v.v.; (iv) Ban hành Luật tiêu chuẩn năng lượng xây dựng, quy định các tiêu chuẩn vật liệu xây dựng nhằm phát triển các vật liệu thân thiện với môi trường và tiết kiệm năng lượng như: kính bức xạ nhiệt thấp nhưng vẫn đảm bảo ánh sáng cung cấp cho các tòa nhà giúp giảm tiêu thụ điện cho hệ thống chiếu sáng và điều hòa không khí.
3. Nhật Bản
Nhật Bản được xem là một trong những quốc gia phát triển hàng đầu trong lĩnh vực công nghệ nano và ngành khoa học vật liệu. Nhật Bản đã duy trì và cải thiện khả năng cạnh tranh với các nước tiên tiến thông qua: (i) Thúc đẩy hợp tác giữa các cơ quan nghiên cứu, công ty, tập đoàn lớn cùng với các biện pháp, chính sách của Chính phủ để đào tạo ra các nhà nghiên cứu, các kết quả nghiên cứu xuất sắc và các vật liệu, thiết bị sáng tạo hàng đầu thế giới; (ii) Phát triển hệ thống chia sẻ thiết bị nghiên cứu tiên tiến toàn quốc và phát triển các cơ sở nghiên cứu quy mô lớn; (iii) Kiến thức, kinh nghiệm, bí quyết về nghiên cứu, phát triển và sản xuất vật liệu đã được tích lũy trong nhiều năm bởi các nhà nghiên cứu và kỹ sư; (iv) Cơ sở dữ liệu chất lượng cao về các đặc tính vật lý, quy trình chế tạo vật liệu là tài sản không thể thay thế để phát triển vật liệu dựa trên dữ liệu trong tương lai.
Để đạt được những thành tựu trên, từ năm 2001, Chính phủ Nhật Bản đã định vị lĩnh vực công nghệ nano và vật liệu là một lĩnh vực quan trọng trong "Kế hoạch cơ bản Khoa học và Công nghệ lần 2". Qua đó, "lĩnh vực công nghệ nano, khoa học vật liệu" được chú ý đặc biệt cùng với "lĩnh vực khoa học đời sống", "lĩnh vực thông tin và truyền thông" và "lĩnh vực môi trường". Nó được xem là một trong bốn lĩnh vực ưu tiên trong R&D. Trong các "Kế hoạch cơ bản về khoa học và công nghệ" các lần tiếp theo, công nghệ nano, vật liệu được Chính phủ nhận định là một công nghệ cơ bản có sức mạnh để trở thành cốt lõi của việc tạo ra giá trị mới, là công nghệ cơ bản xuyên suốt để giải quyết các vấn đề xã hội quan trọng mà Nhật Bản phải đối mặt. Hơn nữa, các vật liệu và linh kiện tiên tiến được xem là nền tảng chung để tăng cường khả năng cạnh tranh công nghiệp. Từ đó đến nay, khoa học và công nghệ về công nghệ nano và vật liệu là nền tảng của các ngành công nghiệp cốt lõi của Nhật Bản như điện tử, ô tô, robot và có khả năng cạnh tranh quốc tế cao.
Về xu thế phát triển, trong "Kế hoạch cơ bản thứ 6" Chính phủ Nhật Bản đã định vị công nghệ vật liệu là một trong những công nghệ cơ bản quan trọng nhất để tạo ra sự đổi mới và đã tiến hành xây dựng một chiến lược toàn diện nhằm thúc đẩy các hoạt động đổi mới khoa học - công nghệ.
Từ quan điểm này, bốn yêu cầu được Chính phủ ưu tiên là:
(1) Phát triển các lĩnh vực công nghệ ưu tiên, lấy công nghệ vật liệu để thúc đẩy sáng tạo đổi mới.
Khai thác các lĩnh vực công nghệ ưu tiên trong các lĩnh vực công nghệ tiên tiến như AI, công nghệ sinh học và công nghệ lượng tử, hiện thực hóa Xã hội 5.0. Các công nghệ được quan tâm gồm: (i) Công nghệ cảm biến sáng tạo và tích hợp; (ii) Công nghệ tích hợp vật liệu và sinh vật sống; (iii) Công nghệ pin thế hệ mới; (iv) Vật liệu có tính năng đặc biệt; (v) Công nghệ kết dính trong vật liệu tổng hợp, năng lượng; (vi) Công nghệ tái chế, tái chế, tinh chế; (vii) Tạo ra chức năng mới của các nguyên tố chưa được khai thác; (viii) Công nghệ phân tử/công nghệ kiểm soát khoảng trống không gian.
(2) Xây dựng một nền tảng sáng tạo vật liệu hấp dẫn
Nhiệm vụ của các nhà nghiên cứu là nghiên cứu sự hấp dẫn của vật liệu. Các vật liệu hấp dẫn có các tính năng đặc biệt từ đó dẫn đến sự đổi mới trong các lĩnh vực ứng dụng mà trước đây chưa được thực hiện và thậm chí là tiến hành những đổi mới đột phá làm thay đổi tư duy, suy nghĩ con người. Những vật liệu như vậy sẽ tiếp tục là cốt lõi của sức mạnh của Nhật Bản.
(3) Cải thiện năng suất thông qua hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D)
Thực hiện chiến lược nghiên cứu và cải cách phương pháp nghiên cứu bằng cách đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ mới như AI, IoT và dữ liệu lớn tại các cơ sở nghiên cứu qua đó tăng cường mạnh mẽ năng suất, hiệu quả của hoạt động R&D về công nghệ vật liệu và môi trường R&D của Nhật Bản sẽ hấp dẫn tất cả các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Xác định vai trò quan trọng của phương tiện và thiết bị phục vụ hoạt động R&D liên quan đến công nghệ vật liệu và việc chia sẻ các cơ sở, thiết bị này để đạt được hiệu quả cao nhất.
(4) Thúc đẩy các biện pháp đồng bộ để phát triển công nghệ vật liệu
Trong việc phát triển công nghệ vật liệu, cần phải giải quyết các vấn đề ngay tại cơ sở nghiên cứu và phát triển, thúc đẩy toàn diện các giải pháp để đáp ứng các thay đổi của nền kinh tế trong nước và quốc tế.
- Hàn Quốc
Để thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp vật liệu, linh kiện và thiết bị, Hàn Quốc đã ban hành Đạo luật về các biện pháp đặc biệt để tăng cường khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp vật liệu, linh kiện và thiết bị với mục tiêu thúc đẩy sự phát triển cho các ngành công nghiệp này, tăng cường khả năng cạnh tranh của các ngành này cũng như tích lũy năng lực công nghệ công nghiệp, xây dựng một hệ sinh thái lành mạnh, từ đó duy trì an ninh và đóng góp vào tăng trưởng của nền kinh tế. Đạo Luật đã được sửa đổi ngày 31/12/2019 và chính thức thi hành từ ngày 04/4/2020 để nhằm có đầy đủ cơ sở pháp lý hỗ trợ các doanh nghiệp nội địa, đẩy nhanh tiến trình thoát khỏi phụ thuộc vào vật liệu, linh kiện và thiết bị nhập khẩu từ Nhật Bản gồm các nội dung chính như:
(1) Lập kế hoạch
Trên cơ sở đề xuất hướng phát triển của ngành công nghiệp vật liệu, linh kiện và thiết bị của Chính phủ, Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng sẽ xây dựng Kế hoạch cơ bản để tăng cường khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp vật liệu, linh kiện và thiết bị trên cơ sở kế hoạch của từng cơ quan hành chính Trung ương liên quan và có sự thảo luận thống nhất của Ủy ban nâng cao năng lực cạnh tranh về vật liệu, linh kiện và thiết bị (Ủy ban)
Kế hoạch cơ bản bao gồm các mục: Định hướng tăng cường khả năng cạnh tranh, xu thế phát triển, tình hình thế giới, công nghệ, nhân lực, cơ sở hạ tầng, hệ thống chính sách pháp luật…
(2) Cơ chế thực hiện
Ủy ban có trách nhiệm: Xây dựng Kế hoạch triển khai và đánh giá hiệu quả thực hiện; Phân tích triển vọng trung và dài hạn liên quan đến vật liệu, thiết bị và thiết lập tầm nhìn quốc gia; Phát triển và cung cấp các giải pháp khi thực hiện các dự án quy mô lớn tạo ra nhu cầu cao về vật liệu, thiết bị; Đề xuất sửa đổi các hệ thống liên quan đến đổi mới khả năng cạnh tranh trong ngành công nghiệp vật liệu và thiết bị; Phối hợp công tác giữa các cơ quan hành chính trung ương liên quan đến chính sách phát triển trong lĩnh vực vật liệu và thiết bị; Lựa chọn và quản lý công nghệ cho phát triển ngành công nghiệp vật liệu, thiết bị; Xây dựng cơ chế tạo thuận lợi cho đầu tư vào ngành công nghiệp vật liệu, thiết bị…
Ủy ban gồm 30 thành viên trở xuống, bao gồm một Chủ tịch và một Phó Chủ tịch. Chủ tịch là Bộ trưởng Bộ Chiến lược và Tài chính, Phó chủ tịch là Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng, các thành viên khác gồm người đứng đầu cơ quan hành chính trung ương và các cá nhân có kiến thức và kinh nghiệm trong việc tăng cường khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp vật liệu, linh kiện và thiết bị được lựa chọn.
Để hỗ trợ cho hoạt động của Ủy ban thực hiện có hiệu quả, có thể thành lập các Nhóm xúc tiến thực thi đặt tại Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng.
(3) Vấn đề thương mại hóa vật liệu, linh kiện và thiết bị
Để thúc đẩy thương mại hóa các kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực này, Chính phủ đặc biệt quan tâm thúc đẩy các dự án nghiên cứu và phát triển chung giữa Trường Đại học, Viện Nghiên cứu, Doanh nghiệp và cá tổ chức có liên quan.
Chính phủ sẽ hỗ trợ về hành chính và kỹ thuật để thúc đẩy thương mại hóa chuyển giao công nghệ, sử dụng và phát triển công nghệ. Vấn đề tiêu chuẩn hóa cũng được quan tâm, Chính phủ cũng đưa các biện pháp để nghiên cứu, phổ biến tiêu chuẩn trong các ngành công nghiệp vật liệu, thiết bị để phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết, Chính phủ cũng hỗ trợ xây dựng các Nhóm hỗ trợ đổi mới, có thể là các Viện Nghiên cứu do Chính phủ tài trợ trong lĩnh vực KH&CN, Viện Nghiên cứu được Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ thông tin và Truyền thông chỉ định trong số các Viện nghiên cứu chuyên ngành hoặc Tổ chức khác được Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng chỉ định sau khi tham khảo ý kiến của người đứng đầu cơ quan hành chính Trung ương có liên quan để hỗ trợ công nghệ, nhân lực, quản lý các ngành công nghiệp vật liệu, thiết bị.
(4) Về nguồn nhân lực
Khi cần thiết, Chính phủ có thể tiến hành điều tra các thông tin về nguồn nhân lực như xu hướng cung và cầu của nhân viên kỹ thuật trong ngành công nghiệp vật liệu, phụ tùng và thiết bị, cung cấp thông tin điều tra cho các tổ chức giáo dục để tham khảo;
Chính phủ có thể chỉ định một tổ chức để thực hiện hoạt động giáo dục và đào tạo nhằm thúc đẩy nguồn nhân lực chuyên ngành cho các công nghệ chiến lược cốt lõi.
(5) Một số biện pháp hỗ trợ khác
Để tăng cường khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp vật liệu, linh kiện và thiết bị, chính phủ có thể thúc đẩy hình thành các tổ hợp chuyên ngành. Khi thiết lập hoặc thay đổi một chính sách phát triển chuyên ngành, ý kiến của người đứng đầu cơ quan hành chính trung ương có liên quan và thống đốc các thành phố/tỉnh liên quan là không thể thiếu trong quá trình xem xét, quyết định.
Các thống đốc thành phố tỉnh liên quan có trách nhiệm chuẩn bị các biện pháp hỗ trợ như địa điểm, thuế, tài chính và quản trị để thúc đẩy hiệu quả chính sách phát triển tổ hợp chuyên ngành.
5. Mỹ
Công nghệ vật liệu được chính phủ Mỹ khẳng định vai trò quan trọng khi được coi là một trong bốn trụ cột của Chiến lược quốc gia về sản xuất tiên tiến năm 2012. Nhiệm vụ thúc đẩy nghiên cứu phát triển ngành công nghiệp vật liệu tại Mỹ bao gồm nhiều cơ quan gồm: Viện Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NIST), Tổ chức Khoa học Quốc gia (NSF), Viện Hàn lâm Quốc gia (National Academies) đóng vai trò lớn trong nghiên cứu phát triển vật liệu mới; Các Bộ Quốc phòng và Bộ Năng lượng cùng các cơ quan khác cùng thúc đẩy nghiên cứu.
Mỹ không có một chiến lược hay lộ trình phát triển ngành vật liệu quốc gia nói chung mà lồng ghép các chương trình phát triển vật liệu mới cho từng ngành cụ thể như: NASA nghiên cứu phát triển vật liệu cho vỏ tàu vũ trụ và hệ thống tên lửa đẩy, Bộ Năng lượng nghiên cứu vật liệu cho thế hệ pin mới, Bộ quốc phòng và ngành công nghiệp ô tô nghiên cứu vật liệu nhẹ…
Chính phủ Mỹ tập trung hơn vào việc xây dựng các công cụ, kỹ thuật và công nghệ phục vụ thúc đẩy nghiên cứu ngành vật liệu. Sáng kiến bộ gen vật liệu được tổng thống Mỹ công bố tháng 6/2011 nhằm xây dựng một cơ sở hạ tầng trí tuệ nhân tạo, tính toán, dữ liệu lớn, công nghệ nguồn mở, trên cơ sở kết hợp vấn đề lý thuyết, mô hình tính toán và thử nghiệm, nhằm tăng tốc khả năng tổng hợp ra vật liệu mới dựa trên ba trụ cột cơ bản: (i) Các phương pháp tính toán có thể dự đoán chính xác các thuộc tính vật liệu; (ii) Thử nghiệm/thí nghiệm dựa trên AI để mở rộng tri thức về vật liệu; (iii) Tổng hợp các chương trình nghiên cứu vật liệu hiện có và thúc đẩy việc chia sẻ dữ liệu về khoa học vật liệu. Sáng kiến này có sự tham gia của NASA, Bộ Năng lượng, các phòng thí nghiệm quốc gia và nhiều cơ quan khác, kể cả khối tư nhân đã giúp tăng tốc và giảm giá thành quá trình khai phá tri thức về vật liệu, điển hình như việc sử dụng máy học để mô phỏng và xác định hình dạng của một hợp kim siêu mạnh gọi là thủy tinh thép, giúp hiệu quả thu được nhanh gấp 200 lần so với phương pháp truyền thống.
Ngoài ra, để phát triển các công nghệ, vật liệu điển hình, Mỹ còn đưa ra các sáng kiến, chương trình riêng như: Về vật liệu Nano, Mỹ đưa ra Sáng kiến quốc gia về công nghệ Nano nhằm triển khai các biện pháp thúc đẩy công nghệ nano ở Mỹ, hướng đến mục tiêu giữ vai trò số một trên thế giới của Mỹ trong ngành công nghệ này. Về năng lượng, Mỹ có chương trình Vật liệu hiếm với mục tiêu giảm rủi ro cho hệ thống sản xuất trong nước bằng cách giảm sự phụ thuộc vào các nguyên liệu và khoáng sản hiếm, hỗ trợ nghiên cứu thay thế các vật liệu này. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế liên quan đến các vật liệu hiếm quan trọng với mục đích cải thiện việc khai thác, tìm sản phẩm thay thế, nâng cao hiệu quả sử dụng và khuyến khích tái chế. Về pin nhiên liệu tiên tiến, tập trung sử dụng mô phỏng điện toán hiệu năng cao, bộ gen vật liệu và các kỹ thuật khác để chọn lựa loại vật liệu phù hợp nhất cho thế hệ pin mới.
6. Pháp
Với mục đích tái thiết các ngành công nghiệp tại Pháp, Hội đồng công nghiệp quốc gia (CNI) được thành lập dựa trên sự phối hợp ba bên gồm các nhà sản xuất công nghiệp, đại diện người lao động và đại diện các cơ quan công quyền. Động lực thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp của CNI dựa trên các dự án cụ thể dành cho 18 Ủy ban các ngành công nghiệp chiến lược (CSF), trong đó có ngành công nghiệp hoá học và vật liệu.
Chiến lược phát triển lĩnh vực công nghệ vật liệu tại Pháp tập trung vào 4 hoạt động chính gồm: đẩy mạnh đầu tư sản xuất, duy trì vị thế nhà cung cấp giải pháp cho các lĩnh vực di động bền vững, năng lượng tái tạo, pin, dược phẩm…; Hỗ trợ quá trình chuyển đổi hệ sinh thái của các doanh nghiệp (nền kinh tế tuần hoàn, năng lượng phát thải các-bon thấp) đảm bảo duy trì khả năng cạnh tranh; duy trì chuỗi cung ứng hiệu quả và hỗ trợ quá trình chuyển đổi số.
Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp vật liệu được cụ thể hoá bằng các dự án chiến lược mang tính vĩ mô, gồm:
(1) Hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang sản xuất năng lượng phát thải carbon thấp và cạnh tranh với mục đích sản xuất năng lượng với giá cạnh tranh hướng tới một nền kinh tế phát thải carbon thấp.
- Hỗ trợ phát triển việc làm và đào tạo kỹ năng bằng cách thiết lập các thoả thuận giữa chính phủ và các tổ chức ngành nghề liên quan đến chuyển số, năng lượng và sinh thái của ngành nhằm thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp vật liệu.
- Hỗ trợ để tăng số lượng các công ty quy mô nhỏ và vừa có tiềm năng trong lĩnh vực vật liệu thông qua hoạt động tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực.
(4) Mục tiêu 100% nhựa được tái chế bằng cách khuyến khích kết hợp nguyên liệu thô từ tái chế (MPR) trong các sản phẩm, khuyến khích sử dụng nguyên liệu thô từ nhựa tái chế trong chuỗi giá trị, phát triển công nghệ tái chế hoá lý và hoá sinh trong lộ trình phát triển nền kinh tế tuần hoàn.
(5) Phát triển công nghệ trong lĩnh vực pin nhiên liệu với mục tiêu đến năm 2030, các cơ sở sản xuất pin tại Pháp sẽ cạnh tranh với các nhà máy Đông Âu và Châu Á. Để phát triển thế hệ pin nhiên liệu thứ 4 hiệu suất cao vào năm 2025, công nghệ vật liệu mới phải đạt đến trình độ nhất định từ năm 2022 nhờ vào các hoạt động nghiên cứu, phát triển, quy trình sản xuất tính đến việc tái chế và quản lý pin cuối vòng đời sử dụng.
Ngoài ra, song song với triển khai các dự án nêu trên, Pháp còn triển khai một số hoạt động để phát triển công nghiệp vật liệu như: Đơn giản hóa các quy định áp dụng cho doanh nghiệp thông qua nghiên cứu, thực hiện thí điểm mô hình; Duy trì sự đảm bảo nguồn nguyên liệu đầu vào và những chính sách hỗ trợ phù hợp với yêu cầu thay đổi nguyên liệu; Tích hợp công nghệ sản xuất mới và kỹ thuật số trong lĩnh vực hóa học và vật liệu; Khuyến khích quốc tế hóa các doanh nghiệp quy mô trung bình, vừa và nhỏ lĩnh vực vật liệu.
Bài học rút ra từ các nước:
Từ những kinh nghiệm quốc tế nêu trên, để phát triển ngành công nghiệp vật liệu đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước, phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần khẩn trương nghiên cứu, xây dựng và ban hành Chiến lược quốc gia về phát triển công nghiệp vật liệu trong đó quy định các cơ chế, chính sách đủ mạnh về hỗ trợ tài chính, khoa học và công nghệ, thương mại hóa, phát triển thị trường… để thúc đẩy phát triển công nghiệp vật liệu một cách đồng bộ, đạt hiệu quả cao.
Việc phát triển công nghiệp vật liệu không nên triển khai theo chiều rộng mà cần lựa chọn, phát triển một số chủng loại vật liệu theo chiều sâu, có quy mô đủ lớn dựa trên nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, phù hợp với nhu cầu, trình độ và khả năng của Việt Nam hiện nay và đặc biệt phải xác định doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vai trò dẫn dắt thị trường là trung tâm trong quá trình xây dựng cơ chế, chính sách và triển khai.
Chiến lược phát triển công nghiệp vật liệu cần gắn với chiến lược phát triển công nghiệp quốc gia và mục tiêu, định hướng phát triển của các ngành kinh tế, kỹ thuật, an ninh quốc phòng để đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả của cơ chế, chính sách cũng như tránh lãnh phí nguồn đầu tư của nhà nước.
III.2. Quan điểm phát triển KH&CN phục vụ phát triển công nghiệp vật liệu
Khoa học và công nghệ giữ vị trí then chốt, là khâu đột phá trong chính sách phát triển công nghiệp vật liệu.
Phát triển công nghiệp vật liệu theo hướng bền vững, sử dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch thân thiện môi trường, phát huy lợi thế về nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước và tận dụng tối đa các thành tựu của cuộc cách mạng lần thứ tư để phát triển công nghiệp vật liệu.
Lựa chọn các lĩnh vực vật liệu ưu tiên nghiên cứu, phát triển phải khách quan, phù hợp với khả năng, nhu cầu của các ngành sản xuất trong nước và xu thế phát triển của thế giới.
Ưu tiên phát triển các chủng loại vật liệu có tính lưỡng dụng, vừa phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, vừa phục vụ an ninh quốc phòng.
Lấy doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có vai trò dẫn dắt làm trung tâm của hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghiệp vật liệu.
III.3. Định hướng hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
Lồng ghép mục tiêu phát triển ngành công nghiệp vật liệu với chiến lược phát triển KH&CN để hỗ trợ phát triển một cách đồng bộ, hiệu quả.
Tập trung nghiên cứu, phát triển một số lĩnh vực vật liệu ưu tiên mà Việt Nam có lợi thế, trong đó chú trọng đầu tư nghiên cứu các nhiệm vụ có quy mô lớn, có tác động lan tỏa làm nền tảng phát triển các ngành công nghiệp khác.
Tăng cường sự phối hợp giữa các Viện, trường với doanh nghiệp trong hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghiệp vật liệu để đưa nhanh các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn, tạo thành chuỗi giá trị trong sản xuất.
Ưu tiên nghiên cứu, phát triển ngành công nghiệp vật liệu sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước, các chủng loại vật liệu có tính lưỡng dụng, phục vụ phát triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng.
Tận dụng tối đa các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trong hoạt động nghiên cứu, phát triển ngành công nghiệp vật liệu.
III.4. Các nhiệm vụ, giải pháp về KH&CN
- Rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách về KH&CN trong đó ưu tiên phát triển ngành công nghiệp vật liệu theo hướng bền vững, đáp ứng yêu cầu của các ngành sản xuất trong nước.
- Tái cơ cấu các Chương trình KH&CN quốc gia, ưu tiên triển khai Chương trình KH&CN về công nghiệp vật liệu theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia.
- Khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp phối hợp đầu tư kinh phí thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ lĩnh vực vật liệu. Hình thành và sử dụng có hiệu quả Quỹ phát triển KH&CN của các doanh nghiệp ngành công nghiệp vật liệu.
- Tăng cường tiềm lực, tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi, thu hút nhân lực, đặc biệt là đội ngũ nhân lực trình độ cao trong ngành công nghiệp vật liệu.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về KH&CN trong các ngành công nghiệp vật liệu theo chiều sâu. Lựa chọn và xây dựng chính sách đặc biệt đối với nhập khẩu công nghệ nguồn, công nghệ cao trong công nghiệp vật liệu để làm cơ sở triển khai nhân rộng.
- Triển khai đồng bộ các hoạt động KH&CN khác để phát triển ngành công nghiệp vật liệu như phát triển thị trường, doanh nghiệp KH&CN; tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng; sở hữu trí tuệ, thẩm định các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghiệp vật liệu...
IV. KẾT LUẬN
Công nghiệp vật liệu là ngành có tính nền tảng, là nguyên liệu đầu vào cho nền sản xuất hàng hóa, có hiệu ứng lan tỏa, tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp khác như cơ khí chế tạo, công nghệ thông tin, điện tử, da giày, dệt may… Vật liệu có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động sản xuất, là điều kiện cần thiết để phát triển nền kinh tế hiện đại, đáp ứng yêu cầu hội nhập. Đây là yếu tố tác động mạnh tới tăng trưởng kinh tế, là cơ sở phát triển cho nhiều ngành, nghề và sản phẩm mới, tạo điều kiện khai thác tối ưu các nguồn lực phục vụ phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, vị thế cạnh tranh và tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu.
Đối với Việt Nam hiện nay, Chiến lược phát triển công nghiệp vật liệu đang là một đòi hỏi tất yếu để cung cấp đầu vào cho nền nền sản xuất, giảm phụ thuộc nhập khẩu, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ là khâu then chốt trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp vật liệu qua đó góp phần giải quyết các nhu cầu thực tiễn trong tình hình hiện nay như:
- Nâng cao tự chủ cho công nghiệp quốc phòng an ninh, cung ứng vật tư cho các thị trường sản xuất trong nước, giảm nhập siêu, tăng giá trị xuất khẩu, nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng sản phẩm của hàng hóa Việt Nam, bảo đảm tính ổn định, phát triển bền vững của doanh nghiệp.
- Khắc phục được tình trạng xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản thô giá rẻ qua đó sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, nâng cao khả năng gia tăng giá trị sản phẩm, tạo thêm nguồn lực cho đất nước.
- Tận dụng tối đa lợi thế từ các hiệp định thương mại Việt Nam đã ký kết, trong đó Hiệp định CPTPP. Một trong số những điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế quan là phải bảo đảm quy tắc xuất xứ, tự chủ được vật liệu. Có như vậy mới tạo ra được ưu thế lớn trong cạnh tranh và xuất khẩu hàng hóa./.
[1] Luật Khoa học và Công nghệ (2013); Luật Sở hữu trí tuệ (2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009); Luật Chuyển giao công nghệ (2017); Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (2006); Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (2007); Luật Năng lượng nguyên tử (2008); Luật Công nghệ cao (2008); Luật Đo lường (2011).
[2] Một số cơ chế, chính sách đặc thù như: (i) Khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp hợp tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân để triển khai dự án đầu tư đổi mới công nghệ, khởi nghiệp sáng tạo, dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển KH&CN; (ii) Hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư cho cơ sở vật chất - kỹ thuật hoạt động giải mã công nghệ, hỗ trợ, ưu đãi cho các tổ chức, cá nhân thực hiện việc giải mã công nghệ; (iii) Thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; (iv) Hỗ trợ hoạt động liên kết, chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ giữa tổ chức KH&CN với doanh nghiệp; (v) Hỗ trợ cá nhân thuộc các cơ sở nghiên cứu, cơ sở giáo dục đại học tham gia hoạt động nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng, đổi mới công nghệ tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh; (vi) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ công nghệ của doanh nghiệp; (vii) Phát triển nguồn cung, cầu công nghệ và một số tổ chức trung gian của thị trường KH&CN như: tổ chức ứng dụng, chuyển giao công nghệ địa phương, điểm kết nối cung cầu công nghệ; (viii) Hỗ trợ vốn, bảo lãnh vay vốn, hỗ trợ lãi suất vay vốn từ Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, tổ chức tín dụng; (ix) Ưu tiên đầu tư vào khu công nghệ cao; (x) Các ưu đãi về thuế đối với máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư chuyên dùng; vật mẫu trong nước chưa sản xuất được để sử dụng trực tiếp cho hoạt động giải mã công nghệ; (xi) Sản phẩm hình thành từ hoạt động giải mã công nghệ được khuyến khích sử dụng trong dự án đầu tư có sử dụng ngân sách nhà nước, ưu tiên trong đấu thầu mua sắm, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công; (xii) Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ công nghệ của doanh nghiệp; (xiii) Các dự án thực hiện việc giải mã công nghệ được ưu tiên đưa vào danh mục nhiệm vụ khoa học và công nghệ để tuyển chọn, giao trực tiếp của chương trình, đề án, quỹ về khoa học và công nghệ
[3] Quyết định số 2355/QĐ-BKHCN ngày 30/8/2017 của Bộ trưởng Bộ KH&CN phê duyệt Khung Chương trình KH&CN trọng điểm cấp quốc gia phục vụ đổi mới, hiện đại hóa công nghệ khai thác và chế biến khoáng sản đến năm 2025
[4] Quyết định số 126/QĐ-TTg ngày 25/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển vật liệu xây dựng phục vụ các công trình ven biển và hải đảo đến năm 2025
[5] Theo "Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo Việt Nam năm 2019".
[6] Theo tỷ lệ quy đổi cán bộ nghiên cứu tương đương toàn thời (FTE), tương đương số cán bộ nghiên cứu dành toàn bộ thời gian cho hoạt động NC&PT.
[7] Công ty cổ phần khoáng sản và luyện kim Việt Nam (Mirex) triển khai nghiên cứu Hoàn thiện công nghệ sản xuất sắt xốp và nghiên cứu sử dụng sắt xốp để luyện một số thép hợp kim phục vụ kinh tế và quốc phòng.
[8] Công ty cổ phần Bơm Hải Dương nghiên cứu, chế tạo thép Duplex và Superduplex, ứng dụng sản xuất bơm cho ngành dầu khí, sản xuất giấy và hóa chất.
[9] Trường Đại học Bách khoa Hà Nội nghiên cứu thuốc hàn thiêu kết bằng nguyên vật liệu trong nước để hàn tự động dưới lớp thuốc các kết cấu thép cacbon thấp và thép hợp kim thấp.
[10] Hiệp hội da giày-túi xách Việt Nam nghiên cứu công nghệ và vật liệu để chế tạo đế giầy cao su - phylon bằng kỹ thuật tích hợp đồng thời và ép phun đế phylon chạm đất nhiều màu.
[11] Viện Dệt may nghiên cứu, sản xuất thành công vải kháng khuẩn, tất cho bệnh nhân đái tháo đường từ sợi có chứa chitosan và các loại sợi chức năng khác.
[12] Viện Công nghệ hóa học, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội nghiên cứu, ứng dụng công nghệ plasma trong sản xuất vải chống cháy từ nguyên liệu bông và polyeste.
[13] Viện Khoa học vật liệu nghiên cứu, chế tạo vật liệu đồng xốp có cấu trúc mao dẫn, ứng dụng làm ống tản nhiệt cho các thiết bị điện tử công suất lớn.
[14] Đại học Bách khoa Hà nội nghiên cứu, sản xuất bột huỳnh quang ba màu và chất phụ trợ phục vụ cho sản xuất đèn huỳnh quang ống và huỳnh quang compact.
[15] Viện Hóa học đã nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ chế tạo màng phủ bền thời tiết và xây dựng mô hình nhà lưới phục vụ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao.
[16] Công ty TNHH Công nghệ và dịch vụ thương mại Lạc Trung nghiên cứu sản xuất và ứng dụng vật liệu màng bao trái trước thu hoạch của một số loại cây ăn quả chủ lực như bưởi, ổi, chuối,...
[17] Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam nghiên cứu, sản xuất vật liệu chống kết khối, thân thiện với môi trường, sử dụng cho phân bón NPK ứng dụng tại các nhà máy sản xuất NPK trong nước.
[18] Trường Đại học Quy Nhơn nghiên cứu, thu hồi và tách đất hiếm từ mỏ Nam Đề Gi để sản xuất phân bón vi lượng.
[19] Trường Đại học Bách khoa Hà nội nghiên cứu, chế tạo sản phẩm cao su kỹ thuật chống rung, chịu nén dùng trong đầu máy - toa xe và túi nâng trục vớt, cứu hộ đường thủy
[20] Viện Vật liệu xây dựng nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sử dụng tro bay thay thế đất sét trong sản xuất clanhke xi măng
[21] Trường Đại học công nghệ giao thông vận tải nghiên cứu, chế tạo bê tông asphalt tái chế ấm và ứng dụng trong xây dựng đường ô tô và hoàn thiện công nghệ chế tạo sơn chống ăn mòn chất lượng cao (tuổi thọ >15 năm), có sử dụng phụ gia nano cho các kết cấu thép trong lĩnh vực giao thông vận tải và xây dựng, công suất 200 tấn/năm.
[22] Trường Đại học Bách khoa Hà Nội nghiên cứu, chế tạo chất phủ chống cháy từ một số hệ polyme hữu cơ và các chất phụ gia nhằm ứng dụng bảo vệ kết cấu, ngăn lửa cho các công trình công nghiệp và dân dụng khi có sự cố hỏa hoạn
[23] Học viện Kỹ thuật quân sự nghiên cứu, sử dụng nguồn xenlulo gỗ Việt Nam dùng để điều chế nitroxenlulo cho sản xuất thuốc phóng thay thế xenlulo gỗ nhập ngoại.
[24] Viện Kỹ thuật quân sự phòng không nghiên cứu Hoàn thiện công nghệ chế tạo vật liệu và sản xuất thử nghiệm lốp máy bay bơm hơi không có săm dùng cho máy bay quân sự L-39.
[25] Viện KH&CN Quân sự nghiên cứu, chế tạo chất dập cháy Khladon-114B2.VN sử dụng cho máy bay quân sự.
[26] Viện Công nghệ, Bộ Quốc phòng nghiên cứu, chế tạo gốm quang học đa tinh thể hạt mịn KO-12 trong suốt bức xạ hồng ngoại trên cơ sở bột nano MgF2 ứng dụng cho hệ quang hồng ngoại trong quân sự.
[27] Viện Cơ khí Năng lượng và Mỏ - Vinacomin và các đơn vị phối hợp nghiên cứu thiết kế, chế tạo thiết bị công nghệ và lắp đặt vận hành thành công Nhà máy tuyển than công suất 2 triệu tấn/năm với công nghệ hiện đại, có hệ thống giám sát, điều khiển tập trung, phù hợp với trình độ nghiên cứu thiết kế, chế tạo thiết bị và tự động hóa điều khiển trong nước, góp phần giảm nhập khẩu công nghệ, tăng nội lực sản xuất cơ khí trong nước. Các thiết bị công nghệ và hệ thống giám sát, điều khiển tập trung của Nhà máy sàng tuyển than Vàng Danh 2 được thiết kế, chế tạo trong nước với tỷ lệ nội địa hóa trên 90%, có giá thành thấp hơn giá nhập ngoại mang lại hiệu quả kinh tế lớn, tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước, tạo cơ sở để các nhà thầu trong nước đảm nhận tổng thầu EPC các công trình nhà máy sàng tuyển, tạo thêm việc làm, thu nhập cho người lao động trong nước, đảm bảo an sinh xã hội.
[28] Công ty CP chế tạo giàn khoan dầu khí (PVShipyard), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã chế tạo thành công giàn khoan khoan tự nâng 120m (Giàn khoan Tam Đảo 05) được hạ thủy, bàn giao cho chủ đầu tư là Liên doanh Việt-Nga Vietsovpetro năm 2016. Giàn khoan Tam Ðảo 05 là giàn khoan tự nâng dầu khí lớn nhất Việt Nam với tổng khối lượng khoảng 18 nghìn tấn sắt thép, có khả năng khai thác ở độ sâu 120m nước và khoan với độ sâu 9km có giá trị kinh tế cao, tỷ lệ nội địa hóa đạt trên 40% khối lượng đã tạo sự đột phá trong ngành cơ khí, đưa Việt Nam vào danh sách số ít các nước có khả năng chế tạo được sản phẩm này (Việt Nam là 1 trong 3 nước ở Châu Á và 1 trong 10 nước trên thế giới làm chủ thiết kế và chế tạo giàn khoan dầu khí). Ngoài hiệu quả về kinh tế, sản phẩm còn giúp Việt Nam có thể mở rộng phạm vi khoan thăm dò, khai thác dầu khí ra vùng biển sâu, góp phần bảo vệ chủ quyền đất nước.
[29] Công ty cổ phần Sông Đà Cao Cường nghiên cứu, chế tạo thành công dây chuyền xử lý Phosphogypsum của Nhà máy DAP Đình Vũ với công suất 750.000 tấn/năm làm phụ gia xi măng và làm nguyên liệu sản xuất tấm thạch cao xây dựng.
[30] Tổng công ty Viglacera đã nghiên cứu, làm chủ thiết kế, chế tạo dây chuyền sản xuất gạch bê tông khí chưng áp - ACC công suất 200.000 m3/năm thay thế việc nhập khẩu thiết bị, công nghệ của nước ngoài. Sử dụng sản phẩm gạch bê tông khí chưng áp AAC (gạch không nung) giảm được 10-15% chi phí xây dựng công trình, góp phần thực hiện Chương trình phát triển vật liệu xây không nung của Chính phủ, bảo vệ tài nguyên đất sản xuất nông nghiệp, giảm phát thải khí độc hại, bảo vệ môi trường…