Thực tiễn và lý luận cách mạng đều cho thấy cơ sở vững chắc khẳng định vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của tổ chức công đoàn; mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời, cùng phát triển giữa giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với các nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, đặt ra một số yêu cầu cao hơn đối với phát triển giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Giai cấp công nhân – tổ chức công đoàn đồng hành dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản
Với tầm vóc trí tuệ và tư duy khoa học vĩ đại, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã phát hiện vai trò của giai cấp công nhân trong bước phát triển kế tiếp của lịch sử loài người – giai cấp thực hiện cuộc cách mạng đi lên chủ nghĩa xã hội. Cùng với đó, các ông cũng xác lập vai trò của tổ chức công đoàn trong công nhân: "Để giành lại cá nhân mình, người công nhân phải liên hiệp lại, thành lập các liên đoàn để bảo vệ tiền công và cuộc sống của mình"([1]); "các hội liên hiệp công nhân có mục tiêu của chúng là thủ tiêu sự cạnh tranh và thay thế sự cạnh tranh đó bằng việc liên hiệp những người công nhân lại"([2]).
Trong điều kiện đảng cầm quyền, V.I. Lê-nin xác lập vị thế của tổ chức công đoàn là "một tổ chức tất yếu về mặt lịch sử… công đoàn tập hợp, bao gồm trong hàng ngũ tổ chức của mình, toàn thể công nhân công nghiệp, nó là một tổ chức của giai cấp đang cầm quyền, đang thống trị, đang chấp chính, là tổ chức của giai cấp đang thực hiện chuyên chính"([3]). Người yêu cầu: "Các công đoàn trở thành và phải trở thành những tổ chức nhà nước có nhiệm vụ trước tiên là cải tổ lại toàn bộ đời sống kinh tế trên những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội"([4]).
Mối quan hệ mật thiết giữa giai cấp công nhân - tổ chức công đoàn - đảng cộng sản đã được chủ nghĩa Mác - Lê-nin vạch rõ. Theo đó, "Công đoàn tạo ra mối liên hệ giữa đội tiên phong với quần chúng"([5]); Công đoàn là "… "sợi dây chuyền" nối liền đội tiền phong với quần chúng của giai cấp tiên tiến và nối liền đội ấy với quần chúng lao động"([6]). Chủ nghĩa Mác – Lê-nin khẳng định: "Giai cấp vô sản ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng chỉ phát triển và chỉ có thể phát triển bằng con đường công đoàn, bằng sự tác động qua lại giữa công đoàn và đảng của giai cấp công nhân, chứ không thể bằng con đường nào khác"([7]).
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sớm có những chỉ dẫn về vai trò của tổ chức Công đoàn. Năm 1927, trong cuốn Đường Kách mệnh, Người đã khái quát vai trò, chức năng của tổ chức Công đoàn: "Tổ chức công hội trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình; hai là để nghiên cứu với nhau; ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ; bốn là để giữ gìn lợi quyền cho công nhân; năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới"([8]). Người chỉ rõ 6 nhiệm vụ lớn của tổ chức công đoàn: "1- Công đoàn phải tuyên truyền đường lối, chính sách chung của Đảng… 2- Công đoàn phải giáo dục cho công nhân về đạo đức vô sản, đạo đức cách mạng... 3- Công đoàn và cán bộ công đoàn phải học trước để hiểu biết khoa học... 4- Nội bộ công nhân phải đoàn kết… đoàn kết là sức mạnh vô địch. Ta đoàn kết nội bộ công nhân, đồng thời củng cố sự liên minh của công nhân... 5. Công đoàn phải tìm cách… giải thích cho công nhân hiểu rõ tình hình trong nước và ngoài nước… nâng cao tinh thần yêu nước của công nhân... 6. Công đoàn phải lãnh đạo, hướng dẫn công nhân. Lãnh đạo phải cụ thể, không quan liêu. Phải dân chủ, bàn bạc với anh em công nhân. Phải kiểm tra"([9]).
Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của đất nước hơn 90 năm qua, Đảng và Nhà nước đã luôn quán triệt chủ trương, đường lối, xây dựng chính sách, pháp luật nhằm phát triển giai cấp công nhân, tổ chức công đoàn song hành, có quan hệ gắn bó mật thiết, không thể tách rời, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta tiếp tục khẳng định sứ mệnh lịch sử to lớn của giai cấp công nhân Việt Nam: "Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước…; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng… Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội; trong đó, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân"([10]).
Phát triển các bản hiến pháp trước đây, Điều 10 Hiến pháp năm 2013 hiến định: "Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"([11]).
Một số kết quả đạt được thời gian qua
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, cùng với sự phát triển của các thành phần kinh tế, giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam không ngừng lớn mạnh. Tính đến hết năm 2019, cả nước hơn 10,5 triệu đoàn viên, sinh hoạt tại hơn 126 nghìn công đoàn cơ sở.
Cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng, thực hiện Nghị quyết Đại hội Công đoàn Việt Nam, các cấp công đoàn đã có nhiều đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương thức hoạt động, đạt được một số kết quả tích cực trên các mặt hoạt động.
Hoạt động đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động được tập trung triển khai. Công đoàn đã tích cực tham gia xây dựng chính sách, pháp luật liên quan đến người lao động; chủ trì nghiên cứu, đề xuất Quốc hội ban hành Luật Công đoàn (năm 2012), tích cực tham gia xây dựng Hiến pháp (năm 2013) và xây dựng, sửa đổi Bộ luật Lao động (các năm 2012, 2019), Luật Việc làm (năm 2013), Luật Bảo hiểm xã hội (năm 2014), Luật An toàn, vệ sinh lao động (năm 2015), Bộ luật Tố tụng dân sự (năm 2015) và nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng khác. Tổng Liên đoàn đã chủ động nghiên cứu, khảo sát thu nhập và đời sống người lao động, tham gia có hiệu quả, góp phần đề xuất điều chỉnh tiền lương tối thiểu vùng tăng trên 60,09% so với năm 2008, cải thiện đời sống đoàn viên, người lao động, thu hẹp khoảng cách giữa tiền lương tối thiểu và mức sống tối thiểu.
Công tác thương lượng, ký kết và giám sát việc thực hiện thỏa ước lao động tập thể có chuyển biến mới. Đến nay, toàn hệ thống đã ký kết được 31.850 bản thỏa ước lao động tập thể, tăng gấp đôi so với năm 2008. Công đoàn chủ động phối hợp thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở; tổ chức hội nghị cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; tiến hành các cuộc đối thoại định kỳ và đột xuất. Trong 4 năm liên tiếp (2016 - 2019), Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tham mưu, đề xuất để Thủ tướng Chính phủ 4 lần gặp gỡ, đối thoại với công nhân, người lao động, góp phần giải quyết kịp thời nhiều khó khăn, vướng mắc, tạo hiệu ứng để lãnh đạo các địa phương, đơn vị gặp gỡ, đối thoại, giải quyết kịp thời các kiến nghị, đề xuất chính đáng của người lao động. Hoạt động tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cấp công đoàn có chuyển biến tốt. Việc bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động, phòng, chống cháy nổ, cải thiện điều kiện và môi trường làm việc cho người lao động được các cấp công đoàn quan tâm thường xuyên, có nhiều đổi mới, góp phần giảm thiểu tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Nhiều công đoàn địa phương đã kiên trì tiến hành khởi kiện, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động và tập thể người lao động, đạt kết quả quan trọng, được người lao động đánh giá cao. Các tranh chấp hoặc nguy cơ tranh chấp lao động được công đoàn phát hiện sớm và có giải pháp kịp thời. Công đoàn đã tích cực phối hợp với các cấp, các ngành trong xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ tại doanh nghiệp, trong giải quyết tranh chấp lao động tập thể và đình công, đã nỗ lực kéo giảm các vụ đình công qua các năm.
Hoạt động chăm lo lợi ích, phúc lợi cho đoàn viên, người lao động có chuyển biến mới, Tổng Liên đoàn có bước đột phá về tư duy chăm lo lợi ích và phúc lợi công đoàn. Nếu những năm trước đây, hoạt động chăm lo lợi ích, phúc lợi chủ yếu thực hiện ở công đoàn cơ sở, chi cho các hoạt động thăm hỏi hiếu hỷ, ốm đau, thai sản là chủ yếu thì gần đây bước đầu đã hình thành một số chương trình thiết thực và hiệu quả toàn hệ thống như: Nhiều năm thực hiện chủ đề công tác năm "Vì lợi ích đoàn viên"; thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn về "Nâng cao chất lượng bữa ăn ca của người lao động"; xây dựng quỹ trợ vốn giúp công nhân lao động nghèo tạo việc làm; thực hiện các chương trình "Mái ấm Công đoàn", "Tết Sum vầy", xây dựng Quỹ Tấm Lòng vàng, chương trình phúc lợi ký thỏa thuận với các đối tác để cung cấp hàng hóa, dịch vụ giảm giá cho người lao động;... Đồng thời, tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước và đã được phê duyệt Đề án "Đầu tư xây dựng các thiết chế của công đoàn tại các khu công nghiệp - khu chế xuất"([12]), xây dựng các thiết chế tại những địa phương có nhiều bức xúc về nhà ở, nhà trẻ, nơi vui chơi, giải trí của công nhân; tham gia cùng chính quyền các địa phương và doanh nghiệp giải quyết các nhu cầu thiết yếu về đời sống của công nhân, người lao động, mang lại rất nhiều lợi ích thiết thực, được đánh giá cao.
Công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động tiếp tục tạo sức lan tỏa trong đoàn viên, người lao động. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn được quan tâm đổi mới về nội dung, phương thức thực hiện. Việc "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" được triển khai bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Công đoàn đã chủ động triển khai các hoạt động tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW và 5 năm thực hiện Kết luận số 79-KL/TW, ngày 25-12-2013, Về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28-1-2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về "Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Các hoạt động kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28-7-1929 – 28-7-2019) thực sự là đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn của đoàn viên, người lao động, khẳng định đóng góp quan trọng của tổ chức Công đoàn trong xây dựng giai cấp công nhân, đồng hành cùng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Hoạt động nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho người lao động có chuyển biến quan trọng. Thực hiện chương trình "Nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp của đoàn viên và người lao động"; tham mưu đề xuất Đề án "Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời trong công nhân, lao động tại các doanh nghiệp đến năm 2020", đã tạo sự chuyển biến trong nhận thức của người lao động về nâng cao năng lực nghề nghiệp. Công tác dư luận xã hội và việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng người lao động được quan tâm. Việc khai thác thế mạnh của in-tơ-nét, mạng xã hội để tuyên truyền, giáo dục, vận động người lao động bước đầu đạt hiệu quả.
Phong trào thi đua yêu nước và công tác thi đua, khen thưởng có chuyển biến tích cực. Các cấp công đoàn đã cụ thể hóa phong trào thi đua "Lao động giỏi", "Lao động sáng tạo"; động viên, cổ vũ đoàn viên, người lao động đăng ký hoàn thành các đề tài, sáng kiến với tổng giá trị làm lợi hàng trăm nghìn tỉ đồng trong giai đoạn 2013 - 2019, thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, khả năng và sức sáng tạo to lớn của giai cấp công nhân, người lao động, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tổ chức Công đoàn đã tích cực đổi mới phương thức vận động, tập hợp đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở; trọng tâm là ở các đơn vị, doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, trong đó chú trọng phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở ở các doanh nghiệp có từ 25 đến 30 lao động trở lên; hằng năm phát triển tăng thêm bình quân từ 350.000 đến 400.000 đoàn viên.
Công tác bồi dưỡng, giới thiệu phát triển Đảng được quan tâm, chú trọng thực hiện. Trong hơn 10 năm (2008 - 2019), các cấp công đoàn đã giới thiệu trên 850.000 đoàn viên ưu tú cho cấp ủy đảng bồi dưỡng; đã có trên 636.000 đoàn viên công đoàn ưu tú được kết nạp vào Đảng, trong đó đoàn viên ưu tú là công nhân trực tiếp sản xuất chiếm gần 8%. Các cấp công đoàn đã chủ động tập hợp được nhiều ý kiến của đoàn viên, người lao động tham gia góp ý, phản biện xây dựng Đảng, hoàn thiện chính sách, pháp luật; giám sát hoạt động của Đảng, chính quyền.
Những kết quả trên đã đóng góp quan trọng vào những thành tựu chung của đất nước, góp phần tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị và sự lớn mạnh của giai cấp công nhân Việt Nam; khẳng định sự phát triển đúng đắn, phù hợp quy luật của giai cấp công nhân gắn với tổ chức công đoàn, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Định hướng phát triển
Trong những năm tới, bối cảnh phát triển đất nước đặt ra những yêu cầu: thực hiện quyết liệt và đồng bộ những chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng về phát triển kinh tế, nhất là các nghị quyết của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII([13]), thúc đẩy chuyển dịch lao động và tăng cơ cấu khu vực ngoài nhà nước trong Công đoàn Việt Nam; đổi mới hệ thống chính trị, trong đó tinh gọn bộ máy, giảm biên chế và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là những giải pháp được ưu tiên hàng đầu; xây dựng giai cấp công nhân, tổ chức công đoàn trong điều kiện nước ta tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với nhiều thuận lợi, cơ hội nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức; lực lượng lao động dịch chuyển nhiều hơn, yêu cầu việc làm bền vững từng bước thay cho việc làm ổn định; số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm, doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước phát triển đa dạng, lao động khu vực phi chính thức tăng. Tính tự nguyện gia nhập Công đoàn Việt Nam của người lao động sẽ bộc lộ nhiều hơn khi có thêm các sự lựa chọn khác, đòi hỏi phải phát huy cao nhất hiệu quả các chủ trương, cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ dành cho công nhân, viên chức, người lao động và tổ chức Công đoàn Việt Nam, tạo thành nguồn lực mới để Công đoàn Việt Nam thực sự là tổ chức đại diện tốt nhất của người lao động.
Đồng thời, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong sự phát triển của giai cấp công nhân, tổ chức công đoàn thời gian qua vẫn còn một số tồn tại, hạn chế: Công tác đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động có mặt còn hạn chế, có nơi chưa kịp thời. Công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động đoàn viên, người lao động chưa theo kịp tình hình; việc tổ chức phong trào thi đua ở một số nơi còn hình thức, kém hiệu quả. Phát triển đoàn viên và xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh chưa đồng bộ... Những vấn đề này cần khắc phục quyết liệt, kịp thời.
Tình hình trên đòi hỏi tổ chức Công đoàn phải nhanh chóng khắc phục các tồn tại, chủ động đổi mới để thích ứng nhằm phát huy và làm tốt vai trò đại diện cho người lao động, thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Trong đó, cần tập trung làm tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị đối với việc chăm lo, bồi dưỡng và phát huy vai trò của giai cấp công nhân, tổ chức Công đoàn Việt Nam. Đổi mới và nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, làm cho mỗi cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, người sử dụng lao động nhận thức đầy đủ, sâu sắc vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn Việt Nam theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; về thời cơ, thách thức và những vấn đề mới đặt ra đối với Công đoàn Việt Nam trong bối cảnh nước ta hội nhập kinh tế sâu rộng, ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và phê chuẩn các công ước quốc tế liên quan đến lao động, công đoàn. Tập trung thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng về xây dựng giai cấp công nhân, đặc biệt là các nội dung trong Nghị quyết số 20-NQ/TW. Tham mưu với cấp ủy, chính quyền xây dựng, triển khai có hiệu quả các chủ trương, chính sách chăm lo, phát triển giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Hai là, tăng cường bồi dưỡng, nâng cao nhận thức và bản lĩnh chính trị, giác ngộ giai cấp, tinh thần dân tộc, trình độ, kỹ năng nghề nghiệp và hiểu biết pháp luật cho đoàn viên, người lao động. Tập trung tuyên truyền, giáo dục, giúp đoàn viên, người lao động nâng cao nhận thức về giai cấp, về Đảng, về chế độ, về tổ chức Công đoàn, về sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam. Giáo dục, phát huy lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức chính trị, kiến thức pháp luật, giữ vững bản lĩnh, tăng sức đề kháng trước những biểu hiện tiêu cực, mặt trái của xã hội cho đoàn viên, người lao động. Không ngừng nâng cao trình độ, ý thức, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, kỹ năng nghề nghiệp, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, giúp đoàn viên, người lao động có việc làm bền vững và cuộc sống tốt đẹp hơn.
Ba là, đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng, bảo đảm việc làm, tiền lương, thu nhập, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của công nhân, người lao động. Tập trung nâng cao chất lượng tham gia xây dựng chính sách, pháp luật, coi đây là phương thức bảo vệ người lao động từ xa, trên diện rộng và hiệu quả. Nghiên cứu, rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật liên quan đến quyền và lợi ích của người lao động, quyền của tổ chức công đoàn, bảo đảm cho người lao động có việc làm ổn định, thu nhập ngày càng nâng cao, đời sống tốt hơn cả khi làm việc và khi nghỉ chế độ hưởng lương hưu. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác thương lượng tập thể, hướng tới thực chất và hiệu quả. Nâng cao hiệu quả công tác đối thoại với người sử dụng lao động và lãnh đạo cấp ủy, chính quyền các cấp để lắng nghe ý kiến và kịp thời giải quyết các kiến nghị của đoàn viên, người lao động. Tham gia xây dựng và giám sát có hiệu quả việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Tuyên truyền, triển khai đồng bộ các giải pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động, xây dựng môi trường làm việc an toàn, góp phần giảm thiểu tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Tiếp tục tham gia giải quyết có hiệu quả những bức xúc của công nhân, xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa người sử dụng lao động và người lao động, hạn chế đình công, ngừng việc tập thể. Phát triển, đa dạng hóa các lợi ích cho đoàn viên công đoàn, công nhân, viên chức, người lao động và các chính sách xã hội khác, tương xứng với những thành quả của công cuộc đổi mới và đóng góp của giai cấp công nhân. Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án "Đầu tư xây dựng các thiết chế của công đoàn tại các khu công nghiệp - khu chế xuất". Thực tiện tốt chương trình "Tết Sum vầy", "Mái ấm Công đoàn", nâng cao chất lượng bữa ăn ca, hoạt động của Quỹ xã hội từ thiện Tấm lòng vàng lao động,…
Bốn là, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trong công nhân, viên chức, người lao động. Đổi mới việc tổ chức phong trào thi đua yêu nước theo hướng thiết thực, hiệu quả, sát hợp từng đối tượng, lĩnh vực, góp phần khẳng định vai trò của tổ chức Công đoàn, của người lao động trong xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Triển khai có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong các cấp công đoàn, tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động của công nhân, viên chức, người lao động cả nước. Tiếp tục đổi mới công tác đánh giá, tổng kết phong trào thi đua; tiến hành biểu dương, khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, quan tâm khen thưởng người lao động trực tiếp và các tập thể nhỏ. Chú trọng phát hiện, nhân rộng điển hình tiên tiến, mô hình hoạt động hiệu quả trong các cấp công đoàn và xã hội.
Năm là, tập trung phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở, nhất là ở doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước; sắp xếp, hoàn thiện mô hình tổ chức; xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Chú trọng đổi mới phương thức kết nạp đoàn viên theo hướng linh hoạt, chủ động, thân thiện, đơn giản về thủ tục, kịp thời quan tâm, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phát triển đảng, quan tâm đối tượng người lao động trực tiếp, nhất là công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế. Phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong giáo dục, rèn luyện và giới thiệu đoàn viên công đoàn ưu tú cho Đảng xem xét, kết nạp. Tập trung đầu tư nguồn lực nâng cao chất lượng công đoàn cơ sở và cấp trên cơ sở, ưu tiên công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước và công đoàn các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế. Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng, thực sự chuyên nghiệp, bản lĩnh, tâm huyết, trí tuệ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Ưu tiên và có chính sách đặc thù trong đào tạo, tuyển dụng, sử dụng cán bộ công đoàn trưởng thành từ cơ sở, từ phong trào công nhân.
Sáu là, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động công đoàn đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Các cấp công đoàn tập trung đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, để Công đoàn Việt Nam thực sự là tổ chức của người lao động, do người lao động và vì người lao động; là cầu nối giữa Đảng với đông đảo quần chúng lao động; là cơ sở chính trị - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Triển khai toàn diện các mặt công tác trên tinh thần sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng đoàn viên, người lao động, trong đó tập trung thực hiện nhiệm vụ quan trọng, cốt lõi là đại diện cho người lao động, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức hoạt động công đoàn theo hướng khoa học, kịp thời, thiết thực, cấp trên phục vụ cấp dưới, công đoàn cơ sở phục vụ đoàn viên, người lao động; phát huy dân chủ gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, hướng mạnh về cơ sở, coi trọng phối hợp, tập trung giám sát và phản biện xã hội. Xây dựng nguồn lực đủ mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đẩy mạnh cải cách hành chính và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong hoạt động công đoàn. Quan tâm đầu tư công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất với Đảng, Nhà nước những chủ trương, chính sách, giải pháp xây dựng giai cấp công nhân phát triển toàn diện trong thời kỳ mới./.
Nguyễn Đình Khang - UVTW Đảng
Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam
(Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản, số tháng 5/2020)
Theo congdoan.vn