CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ - NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIÊP VÀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
THE FOURTH INDUSTRIAL REVOLUTION AND IMPLICATIONS FOR INDUSTRIAL DEVELOPEMT AND
HUMAN RESOURCES DEVELOPMENT IN THE CITY OF DANANG
Thành ủy Đà Nẵng
Provincial Party Committee of Da Nang City
Tóm tắt:
Trong những năm qua, ngành công nghiệp của Đà Nẵng đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ, tác động tích cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân, đóng góp trên 23% GDP toàn thành phố. Tuy nhiên, sự phát triển của ngành hiện nay, nhất là trong giai đoạn những ảnh hưởng của CMCN 4 đang cận kề, đã bộc lộ những vấn để tồn tại, hạn chế cơ bản. Để xây dựng thành phổ Đà Nẵng trở thành trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, đón đầu CMCN 4 chính sách công nghiệp của thành phố Đà Nẵng trong thời gian đến cần phải thay đổi theo hướng sau: (i) bộ máy hành chính tại địa phương và hệ thống cơ chế chính sách, thủ tục hành chính cần cải tiến để thích ứng và bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng. (i)cần có chính sách ưu tiên đầu tư phát triển mạnh ngành tự động hóa và công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ, giá trị gia tăng cao, có hiệu quả, sức cạnh tranh gắn với mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị. (i) đẩy mạnh hơn nữa các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, chính sách khởi nghiệp, trong đó lấy tri thức làm yếu tố khác biệt, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp./.
Abstract:In recent years, Danang's industrial sector has achieved some encouraging achievements, having positive impacts on manufacturing activities, business and people's lives, contributing over 23% of the city'sGDP. However, in the circumstance of the Fourth Industrial Revolutionsetting its early stages, has revealed some remaining problems and basic restrictions for the industrial development of the city. To makeDa Nang city an industrial, commercial tourism and services center of the Central and Highland Vietnam, necessary amendments regarding the industrial policies of Danang should be made as suggested following: (i) the local administration system and policy mechanism, administrative procedures need improvement in order to adapt and catch up with the rapid changes. (ii) the need to prioritize investment policy with focus given toindustrial automation, and high-tech industries, supporting industries, industrial products with scientific and technological content, high added value, which efficiency and competitiveness associated with production networks and value chains. (iii) further strengthen the policies to promote innovations, and develop an entrepreneurship ecosystem. /.
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4) hứa hẹn sẽ làm bùng nổ năng suất lao động, giúp tiết kiệm thời gian và chi phí sản xuất. Nhưng mặt khác làn sóng đổi mới công nghệ cũng đồng thời đe dọa gây bất ổn xã hội bởi hàng triệu việc làm có thể rơi vào tay robot hay các cỗ máy thông minh; cùng với đó là sự gia tăng bất bình đẳng. Điều này được giải thích bởi cuộc cách mạng công nghiệp là sự phát triển dựa trên nền tảng sẵn có, điều đó có nghĩa là những doanh nghiệp, những nhà sáng chế sẽ là những người được hưởng lợi từ cuộc cách mạng này; còn những người khác, đặc biệt là trong các lĩnh vực dịch vụ sẽ bị ảnh hưởng (Ông Klaus Schwab - Chủ tịch Diễn đàn kinh tế thể giới, 2016).
1- Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với chính sách công nghiệp của thành phố Đà Nẵng
Thực trạng phát triển của ngành công nghiệp thành phố Đà Nẵng
Thực tế tại Đà Nẵng, trong những năm qua, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thành phố đã có nhiều giải pháp, chính sách triển khai thực hiện đạt kết quả bước đầu. Trong đó, ngành công nghiệp đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ, tác động tích cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân, đóng góp trên 23% GDP toàn thành phố, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội thành phố trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Sản xuất công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2015 theo giá so sánh 2010 ước đạt 45.502 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011-2015 đạt 11,8%/năm. Tổng vốn đầu tư phát triển (ĐTPT) toàn ngành công nghiệp (giá thực tế) giai đoạn 2011-2015 đạt 24.880 tỷ đồng, chiếm khoảng 16,8% tổng vốn ĐTPT toàn thành phố, bình quân đạt 4.976 tỷ đồng/năm.
Cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế đã có sự thay đồi. Cùng với quá trình chuyển đổi, sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước nay đã được chuyển sang cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Bên cạnh đó, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng ngày càng phát triển. Giá trị sản xuất công nghiệp nhà nước năm 2015 chiếm tỷ trọng 26% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn thành phố, công nghiệp ngoài nhà nước chiếm 43,1%, công nghiệp FDI là 30,9%.
Cơ cấu công nghiệp theo phân ngành kinh tế cũng có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần các ngành công nghiệp chế biến thô, gia công hàng xuất khẩu; tăng dần các ngành có yêu cầu cao hơn về kỹ thuật và công nghệ. Tổng tỷ trọng các ngành chế biến thực phẩm (chủ yếu là thủy sản), chế biến nông - lâm sản, dệt, may, giày, sản xuất vật liệu từ khoáng phi kim loại (gạch, ngói, gốm, sứ, xi măng...) trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp vào năm 2010 là 43,9%, đến nay giảm còn 38%; các ngành hóa chất, cao su, nhựa, luyện kim, cơ khí, sản xuât máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị, linh kiện điện, điện tử có tổng tỷ trọng vào năm 2010 là 42,9%, đến nay tăng đạt 49,2% (trong đó, ngành sản xuất sản phẩm điện tử - máy vi tính có tỷ trọng từ 1,9%, đến nay tăng lên 6,7%).
Cơ cấu mặt hàng sản xuất cũng thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng có sản phẩm công nghệ cao nhất là thiết bị điện - linh kiện điện tử. Nếu như trước đây sản xuất của thành phố chủ yếu là các sản phẩm như sản xuất thực phẩm, dệt may, cao su, nhựa, hóa chất thì đến nay mặt hàng sản xuất phong phú, đa dạng hơn với quy mô lớn hơn và thêm nhiều mặt hàng mới: lắp ráp và sản xuất linh kiện xe ô tô, lốp ôtô tải radial, chế biến sản xuất sữa, linh kiện - thiết bị điện, điện tử, thủy sản tinh chế.
Công nghiệp hỗ trợ của thành phố có bước phát triển ban đầu với các sản phẩm: bộ lọc dầu, lọc gió, lọc nhớt, linh kiện nhựa và ghế ôtô, motor loại nhỏ, tụ điện màng mỏng, sợi Ne... Công nghiệp công nghệ cao bước đầu thu hút được một số dự án với các sản phẩm van điện từ chính xác cao, vật liệu đúc dùng trong bộ phận thủy lực, dược phẩm công nghệ nano và công nghệ sinh học.
Hạ tầng sản xuất công nghiệp được quan tâm đầu tư với việc hình thành và đưa vào hoạt động ổn định 06 khu công nghiệp tập trung và 01 Cụm Công nghiệp; đang triển khai hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng 01 Khu Công nghệ cao và 01 Khu Công nghệ thông tin tập trung.
Để hỗ trợ thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp công nghiệp nói riêng, các ngành chức năng đã tham mưu UBND thành phố ban hành một số cơ chế, chính sách như: Đề án phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; Đề án Vườn ươm doanh nghiệp; Chương trình phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực; Chính sách khuyến công; Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ; Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ; Dự án Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp nhỏ và vừa; Chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư vào Khu công nghệ cao Đà Nẵng; Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp nhận lao động vào đào tạo nghề và giải quyết việc làm; Đề án phát triển thương hiệu cho một số sản phẩm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ưu tiên, Chính sách phát triển sản xuất sản phẩm lưu niệm du lịch... Thông qua các chương trình, thành phố đã hỗ trợ doanh nghiệp hàng tỷ đồng để doanh nghiệp cải tiến, đổi mới công nghệ, xây dựng hệ thống quản lý chất lượng, xây dựng thương hiệu, đào tạo nghề, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ...
Những yêu cầu đặt ra về đổi mới chỉnh sách công nghiệp đối với thành phố Đà Nẵng trong bối cảnh của CMCN 4
Nhìn chung, với tốc độ tăng trưởng khá về giá trị sản xuất, ngành công nghiệp đã khẳng định được vai trò và có những đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế chung của thành phố Đà Năng trong thời gian qua. Tuy nhiên, sự phát triển của ngành hiện nay, nhất là trong giai đoạn những ảnh hưởng của CMCN 4 đang cận kề, đã bộc lộ những vấn để tồn tại, hạn chế cơ bản như sau:
Sự phát triển của một số ngành công nghiệp trọng yếu của thành phố chưa như mong đợi. Cơ cấu công nghiệp vẫn còn nặng về gia công, lắp ráp, chế biến thô. Công nghiệp hỗ trợ còn nhỏ bé. Đa số doanh nghiệp có quy mô nhỏ; năng suất lao động thấp; trình độ công nghệ phần lớn là yếu và trung bình. Thu hút đầu tư nước ngoài phân lớn vẫn là các nhóm ngành gia công, lắp ráp, có giá trị gia tăng thấp, ít chuyên giao công nghệ, sử dụng công nghệ truyền thống, thu hút chủ yếu là lao động phổ thông. Giá trị gia tăng toàn ngành công nghiệp còn thấp.
Công tác tổ chức, thực hiện quy hoạch ngành công nghiệp còn yếu, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ cho các ngành công nghiệp trọng yếu phát triển. Sự liên kêt giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước rất yếu, do đó công nghệ và kỹ năng quản lý của các doanh nghiệp FDI không lan tỏa và có tác động tích cực đến nền kinh tế thành phố.
Công nghiệp thành phố nhìn chung phát triển thiếu vững chắc, kém khả năng cạnh tranh, dễ bị tổn thương bởi những thách thức đến từ hội nhập kinh tế.
Nhận thức được điều đó, để xây dựng thành phổ Đà Nẵng trở thành trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp xứng đáng với vai trò vốn có của nó, đồng thời đón đầu được những xu hướng của CMCN 4 như đã nêu; chính sách công nghiệp của thành phố Đà Nẵng trong thời gian đến cần phải thay đổi theo hướng sau:
Thứ nhất, bộ máy hành chính tại địa phương và hệ thống cơ chế chính sách, thủ tục hành chính cần cải tiến để thích ứng và bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng. Khi thế giới vật lý, kỹ thuật số, sinh học xích lại gần nhau, những nền tảng và công nghệ mới sẽ cho phép doanh nghiệp và người dân tham gia nhiều hơn vào vai trò điều hành của cơ quan nhà nước, nói lên ý kiến của họ và đóng góp vào quá trình xây dựng, triển khai chính sách. Do đó, chính quyền thành phố Đà Nẵng cần tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông vào mọi hoạt động của mình, hoàn thiện hệ thống chính quyền điện tử, nâng cao mức độ ứng dụng dịch vụ công trực tuyến, cải thiện năng lực quản lý hạ tầng số. Đồng thời, để thích ứng nhanh cần mạnh mẽ phân cấp, phân quyền theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm gắn với giám sát chặt chẽ. Cơ cấu bộ máy cũng cần được tinh gọn, lấy hiệu quả làm đầu và tăng cường phối hợp, chia sẻ thông tin một cách minh bạch qua hệ cơ sở dữ liệu chung sao cho các quyết định được đưa ra nhanh chóng, chính xác, giảm bớt cấp bậc thi hành.
Thứ hai, cần có chính sách ưu tiên đầu tư phát triển mạnh ngành tự động hóa và công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ, giá trị gia tăng cao, có hiệu quả, sức cạnh tranh gắn với mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị. Cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư theo hướng thông thoáng, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển công nghiệp, trong đó tập trung thu hút đầu tư vào công nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin, công nghiệp hỗ trợ theo hướng tăng trưởng xanh, trong đó chú trọng vào các sản phẩm: thiết bị điện, điện tử, phần mềm tin học, dược phẩm, vật liệu mới, cơ khí chế tạo, cơ khí chính xác, công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu. Ưu tiên thu hút đầu tư, tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ những nước có công nghiệp công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ phát triển: Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, EU...
Thứ ba, đẩy mạnh hơn nữa các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, chính sách khởi nghiệp, trong đó lấy tri thức làm yếu tố khác biệt, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp. Chìa khóa để Đà Nẵng thu hẹp khoảng cách với hai đầu đất nước và các thành phố tiên tiến chính là yếu tố con người, một lực lượng lao động có kỹ năng và được đào tạo bài bản. Để tạo được điều đó cần tăng cường hơp tác công - tư trong giáo dục. Trong đó, đào tạo được gắn với nhu cầu của doanh nghiệp, tăng đào tạo các nhóm ngành kỹ thuật, giảm tình trạng thừa thầy thiếu thợ. Bên cạnh đó, cần triển khai hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo nâng cao trình độ lao động, qua đó nâng cao năng suất lao động, có chính sách thu hút và phân bổ nhân lực chất lượng cao vào làm việc trong khu vực tư, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ.
Ngoài ra, cần tiếp tục xây dựng và triển khai các chương trình hỗ trợ cụ thể đối với từng nhóm hàng, ngành hàng theo hướng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh; áp dụng sản xuất sạch hơn; hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới, cải tiến công nghệ, triển khai ứng dụng rộng rãi các công nghệ mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, sử dụng hiệu quả năng lượng, thân thiện với môi trường; trong đó tập trung vào chính sách khuyến khích hỗ trợ phát triển các lĩnh vực, sản phẩm công nghiệp ưu tiên của thành phố (Chính sách khuyến khích phát triển sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, chính sách phát triển công nghiệp công nghệ cao, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ trên địa bàn thành phố...). Thúc đẩy hợp tác quốc tế trong nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ; ưu tiên tài trợ cho các tổ chức, cá nhân có thành tích khoa học công nghệ xuất sắc thông qua Quỹ phát triển khoa học công nghệ thành phố.
2- Những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển con người và lực lượng lao động của thành phố Đà Nẵng.
2.1- Thực trạng dân số, lao động và việc làm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
* Dân số
Dân số trung bình của thành phố Đà Nằng năm 2015 đạt hơn một triệu dân, từ 946,02 ngàn người năm 2011 tăng lên 1.028 ngàn người năm 2015 với tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2,12%/năm - tốc độ tăng cao hơn so với giai đoạn trước đó (tốc độ tăng dân số bình quân trong giai đoạn 2006-2010 là 1,94%/năm). Cùng với sự gia tăng dân số, mật độ dân số trung bình của thành phố cũng có xu hướng tăng trong giai đoạn này từ 740 người/km2 năm 2011 tăng lên 800 người/km2 năm 2015. Dân cư phân bổ không đồng đều giữa các quận, huyện; trong đó tập trung ở các quận trung tâm thành phố như quận Thanh Khê (20,1 ngàn người/km2), gấp đôi dân số quận Hải Châu (9 ngàn người/km2) và gấp hơn 10 lần quận Ngũ Hành Sơn (1,89 ngàn người/km2). Sự chênh lệch khá cao về mật độ dân số giữa các quận trung tâm thành phố và các quận, huyện khác được giải thích do hiện tượng di dân của lực lượng lao động từ các huyện ngoại thành và tỉnh lân cận đến thành phố.
* Lực lượng lao động
Năm 2015 tổng lực lượng lao động của toàn thành phố là 547 ngàn người, chiếm 96,5% tổng dân số trong độ tuổi lao động và 51,8% trong toàn dân số. Với tốc độ tăng dân số trung bình của thành phố trong giai đoạn 2011-2015 là 1,9%/năm, nguồn lao động của thành phố từ 504,6 ngàn người năm 2011 tăng lên 547 ngàn người trong năm 2015 với tốc độ tăng bình quân 2,3%/năm; tương đương mỗi năm thành phố có khoảng 12,1 ngàn người tham gia vào thị trường lao động. Trong đó, tỷ lệ lao động có việc làm trong cơ cấu nguồn lao động trong giai đoạn này khá cao; bình quân 95,9% với tốc độ tăng bình quân 2,63%/năm; tương đương khoảng 13 ngàn lao động được bổ sung hằng năm. Theo đó, tỷ lệ thất nghiệp của thành phố trong giai đoạn này có xu hướng giảm, bình quân mỗi năm giảm khoảng 4,3%. Lực lượng lao động của toàn thành phố trong giai đoạn 2011-2015 tăng trưởng nhanh hơn nhờ vào sự gia tăng lượng lao động trong khu vực nông thôn (tốc độ tăng trưởng bình quân lao động trong giai đoạn của khu vực nông thôn là 2,8% và thành thị là 2,5%) và chủ yếu từ nguồn lao động nữ (tốc độ tăng trưởng bình quân lao động trong giai đoạn này của nữ là 3,6% và nam là 1,8%).
Đặc điểm của nguồn lao động trong giai đoạn 2011-2015 cho thấy có sự cân bằng giới tính cao khi tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động chia theo giới tính qua các năm nằm trong khoảng 49-50%; trong đó tỷ lệ lao động có việc làm giữa nam và nữ cũng khá cân bằng. Ngoài ra, kết quả khảo sát lao động trên địa bàn thành phố năm 2014 do Cục Việc làm thực hiện, cho thấy lực lượng lao động của thành phố đa số là lao động trẻ, có độ tuổi dưới 35 tuổi, chiếm 32,5%; phân bổ chủ yếu tại khu vực đô thị chiếm 86,2%, khu vực nông thôn 13,8%.
Những gợi ý chính sách đối với thành phố Đà Nẵng trong việc đào tạo và phát triến nguồn nhân lực cho tương lai
- Đổi mới cách thức phát triển nguồn nhân lực phục vụ trong khu vực công cho thành phố, đặc biệt thông qua các chính sách thu hút và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong đó, công tác dự báo nhu cầu từ các đơn vị cơ sở giữ vai trò quan trọng. Bộ phận phụ trách nhân sự của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn thành phố cần được bồi dưỡng kỹ năng xây dựng hệ thống vị trí việc làm của cơ quan, đơn vị mình; từ đó xây dựng kế hoạch tuyển dụng hàng năm và 5 năm. cần xác định cụ thể số lượng, ngành nghề, tiêu chuẩn, thời gian dự kiến tuyển dụng, đào tạo để cơ quan có thẩm quyền triển khai chính sách thu hút. Trên cơ sở hệ thống vị trí việc làm và nhu cầu tuyển dụng, các cơ quan, đơn vị kết họp cùng Sở Nội vụ thông báo tuyển dụng công khai. Những đối tượng đáp ứng các tiêu chuẩn tuyển dụng vẫn cần được kiểm tra, phỏng vấn, thử việc để đánh giá năng lực chuyên môn, kỹ năng làm việc và tư chất đạo đức, từ đó quyết định bố trí công việc phù hợp và hạn chế trường hợp tuyển dụng những đối tượng có bằng cấp nhưng không có thực lực.
Ngoài việc thu hút nhân lực trình độ cao làm việc dài hạn, thành phố cũng khuyến khích các hình thức hợp đồng tư vấn, làm việc ngắn hạn với các chuyên gia, nhà khoa học ở trong và ngoài nước, nhất là những nhà khoa học đang sinh sống và làm việc trên địa bàn thành phố. Đây là hình thức khai thác khá tốt năng lực, trí tuệ của nguồn nhân lực trình độ cao có uy tín mà không phải bận tâm về vấn đề thu nhập, lương bổng.
Đối với khu vực tư nhân, cần thống nhất vai trò của chính quyền thành phố và doanh nghiệp trong công tác phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; trong đó, chính quyền thành phố đóng vai trò định hướng, hỗ trợ, tạo cơ chế thuận lợi, thông thoáng để doanh nghiệp thu hút, tuyển dụng, sở hữu được nguồn nhân lực chất lượng cao. Doanh nghiệp chủ động triển khai việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu cụ thể của mình.
Đẩy mạnh các chương trình hỗ trợ đào tạo trực tiếp cho nhân lực tại chỗ của các doanh nghiệp. Trong đó, hỗ trợ nâng cao năng lực cho nhân lực đang làm việc tại các doanh nghiệp thông qua các khóa đào tạo theo "đặt hàng" của các doanh nghiệp; hỗ trợ kinh phí để người lao động của doanh nghiệp tham gia các khóa đào tạo đạt tiêu chuẩn nghề cấp quốc gia và khu vực. Bên cạnh đó, thành phố sẽ xem xét thí điểm việc phân bổ học viên Đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về làm việc cho các doanh nghiệp có nhu cầu trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Đây là lực lượng đã được đào tạo bài bản, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho doanh nghiệp tại thành phố.
Khuyến khích các doanh nghiệp tự tổ chức các khóa đào tạo hoặc dạy nghề cho nhân viên trong quá trình làm việc, trong đó thành phố hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo đối với các chương trình đào tạo được thẩm định có hiệu quả tốt. Đối với các doanh nghiệp có chính sách đào tạo, thu hút được các cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia và cán bộ khoa học - công nghệ đầu ngành... thành phố cần có chính sách hỗ trợ và tôn vinh thích đáng.