Hoạt động sản xuất của Công ty cổ phần Tập đoàn bút bi Thiên Long, Khu công nghiệp Tân Tạo, quận Tân Bình
Cụ thể, giai đoạn 2010-2015, công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh tăng trưởng bình quân 5,87%/năm, trong khi cả nước tăng bình quân 7,39%; giai đoạn 2016-2022, công nghiệp của thành phố tăng trưởng 2,67%/năm thì công nghiệp cả nước tăng trưởng 6,8%/năm. Tính cả thời kỳ 2010-2022, công nghiệp của Thành phố Hồ Chí Minh chỉ tăng 4,11%, còn công nghiệp cả nước tăng bình quân hơn 7,07%/năm.
Hiện, công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh đang đối diện với bốn thách thức lớn: Tỷ trọng công nghiệp trong GRDP có xu hướng giảm và chững lại; quy mô toàn ngành công nghiệp đang mất dần vị trí đứng đầu trong vùng Đông Nam Bộ và cả nước; tốc độ giá trị tăng thêm của toàn ngành công nghiệp luôn thấp hơn tốc độ tăng GRDP của Thành phố Hồ Chí Minh; diện tích đất dành cho công nghiệp khá hạn chế nên khó thu hút các dự án đầu tư quy mô lớn. Ngoài ra, xu hướng chuyển dịch sản xuất ra các tỉnh lân cận có xu hướng tăng, cũng như việc ứng dụng công nghệ trong sản xuất của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp của địa phương này. Mặc dù xét về quy mô, công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh vẫn dẫn đầu cả nước với tổng giá trị sản phẩm trên địa bàn năm 2023 đạt khoảng 300 nghìn tỷ đồng, tạo việc làm cho khoảng một triệu lao động, nhưng xét về tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu công nghiệp cả nước có xu hướng giảm dần.
Thành phố Hồ Chí Minh có rất nhiều ngành công nghiệp nhưng chưa có những “sếu đầu đàn” trong từng ngành, chưa định hình được nền tảng phát triển để mang tính dẫn dắt. Kể cả ngành công nghiệp điện tử là ngành công nghiệp chủ lực của thành phố, chiếm khoảng 70% số lượng doanh nghiệp điện tử của toàn Vùng kinh tế trọng điểm phía nam, nhưng cũng chưa để lại dấu ấn rõ nét.
Trong số khoảng 620 doanh nghiệp hoạt động trong ngành điện tử trên địa bàn thành phố, phần lớn là doanh nghiệp trong nước có quy mô vốn vừa và nhỏ. Số liệu thống kê gần đây cho thấy, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài quy mô vốn bình quân cao gấp 52 lần so với quy mô vốn bình quân của loại hình công ty TNHH tư nhân; gấp 122 lần so với loại hình công ty cổ phần trong nước; gấp 163 lần so với công ty TNHH 100% vốn nhà nước.