Trong phần lớn bốn thập kỷ qua, các quốc gia Đông Nam Á đã được hưởng lợi từ mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc. Quan hệ thương mại và đầu tư phát triển với cường quốc láng giềng này đã hỗ trợ họ tăng trưởng và nâng cao mức sống.
Nhưng hiện nay, trong bối cảnh triển vọng tăng trưởng của Trung Quốc đang chững lại, các câu hỏi về tương lai kinh tế của khối ASEAN gồm 10 thành viên một lần nữa lại được đặt ra.
Kể từ khi Bắc Kinh đưa ra quyết định tái cân bằng tăng trưởng kinh tế theo hướng tiêu dùng thay vì đầu tư vào năm 2007, các nhà phân tích và nhà đầu tư đã nhiều lần bày tỏ nghi ngờ về khả năng họ thực hiện điều đó mà không bị giảm tốc độ tăng trưởng đột ngột. Điều này là do bản chất thúc đẩy tín dụng trong nỗ lực đầu tư của Trung Quốc, đã đẩy tổng nợ lên gần 300% tổng sản phẩm quốc nội và làm tăng các lỗ hổng tài chính.
Cho đến nay, Trung Quốc đã ngăn chặn xảy ra bất kỳ cuộc khủng hoảng nào và thiết lập thể chế mạnh mẽ nhằm duy trì xác suất xảy ra khủng hoảng ở mức thấp. Nhưng họ cũng có rất ít tiến triển trong việc tái cân bằng.
Tỉ lệ tiêu dùng trong GDP của Trung Quốc hầu như không thay đổi trong 15 năm qua. Đầu tư tiếp tục chiếm hơn 40% sản lượng kinh tế bất chấp tình trạng dư thừa công suất trong các ngành công nghiệp truyền thống.
Tuy nhiên, mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư của Trung Quốc đang đạt đến giới hạn. Đây chính là nguồn gốc của những vấn đề hiện tại của nền kinh tế. Cùng với những rạn nứt với các đối tác xuất khẩu lớn nhất - Mỹ và châu Âu - và sự thay đổi ưu tiên chính trị trong nước từ tăng trưởng sang an ninh, xu hướng tăng trưởng triển vọng của Trung Quốc đã bị che phủ trong một thời gian dài.
Trong khi các nhà phân tích có thể tranh luận về tiềm năng phục hồi trong ngắn hạn, không thể phủ nhận sự suy thoái cơ cấu đang diễn ra ở nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc đã giảm hơn một nửa từ năm 2007 đến năm 2019 và có khả năng giảm xuống còn 3,5% vào cuối thập kỷ này.
Đông Nam Á có phải lo lắng?
Mối quan hệ thương mại giữa khu vực Đông Nam Á với Trung Quốc đang mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Thương mại hàng hóa song phương đã vượt 500 tỷ USD vào năm 2019. Nhưng mối quan hệ ngày càng mất cân bằng khi Đông Nam Á phụ thuộc nhiều hơn vào nhập khẩu của Trung Quốc và có mức tăng trưởng xuất khẩu ít hơn.
Ngoài Indonesia, quốc gia xuất khẩu hàng hóa được hưởng lợi từ nhu cầu nguyên liệu thô mạnh mẽ từ các ngành đang phát triển nhanh của Trung Quốc như xe điện và tấm pin mặt trời, thì thị phần của Trung Quốc trong tổng xuất khẩu của các nền kinh tế lớn của ASEAN đã trì trệ trong thập kỷ qua.
Điều này là do đặc điểm chính của tăng trưởng của Trung Quốc kể từ giữa những năm 2000 là sự phụ thuộc ngày càng giảm vào nhập khẩu. Tốc độ nhanh chóng chuyển hoạt động sản xuất về nước đã khiến Trung Quốc ngày càng ít phụ thuộc hơn vào các nước khác, bao gồm cả các nước láng giềng Đông Nam Á, để đáp ứng nhu cầu trong nước và vận hành chuỗi giá trị của mình.
Có thể với việc Trung Quốc chuyển trọng tâm sang sản xuất công nghệ cao, nước này có thể bắt đầu nhập khẩu nhiều hàng tiêu dùng hơn từ các nền kinh tế ASEAN. Tại hội nghị thượng đỉnh với các nhà lãnh đạo ASEAN vào tháng 9, Trung Quốc đã cam kết tăng nhập khẩu từ khu vực Đông Nam Á.
Chi tiêu ngày càng tăng của người Trung Quốc cho ngành dịch vụ cũng mang lại cơ hội tốt cho các nước láng giềng phía nam của nước này.
Thái Lan, Malaysia, Singapore và các nước khác được hưởng lợi đáng kể từ lượng khách du lịch Trung Quốc tăng mạnh trong những năm trước đại dịch. Ngoài việc trực tiếp nâng cao sự đóng góp của du lịch vào tăng trưởng của các quốc gia này, dòng du khách còn tạo ra việc làm, nâng cao thu nhập và thúc đẩy nhu cầu trong nước. Xu hướng này có thể sẽ tiếp tục và có thể tăng tốc khi những diễn biến địa chính trị khiến người Trung Quốc tránh các điểm đến được ưa chuộng trước đây như Nhật Bản và Mỹ.
Tuy nhiên, yếu tố lớn nhất làm giảm bớt lo lắng cho các nền kinh tế Đông Nam Á là tiềm năng thu hút chuỗi cung ứng đa dạng hoá ra khỏi Trung Quốc của khu vực. Điều này có thể bù đắp nhiều hơn tác động tiêu cực từ sự suy thoái của Trung Quốc, bằng cách thúc đẩy xuất khẩu sang phần còn lại của thế giới và tạo ra tác động lan tỏa tích cực đáng kể cho nền kinh tế các nước Đông Nam Á.
Nhưng phải thừa nhận rằng, vẫn có những thách thức.
Căng thẳng Mỹ-Trung đã gia tăng đáng kể trong những năm gần đây. Washington không chỉ lo ngại về hàng nhập khẩu giá rẻ của Trung Quốc nữa mà còn lo ngại rằng Bắc Kinh đang sử dụng bí quyết của mình để đi trước trong một số công nghệ tiên tiến. Những lo lắng này được chia sẻ bởi một số đồng minh của Mỹ, bao gồm cả Hàn Quốc và Nhật Bản, và đã lên đến đỉnh điểm trong sáng kiến do Mỹ dẫn đầu nhằm tạo ra chuỗi cung ứng loại trừ Trung Quốc.
Nhìn bề ngoài, đây là một vấn đề đối với các nền kinh tế ASEAN. Họ phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc về đầu vào trung gian, lại là những nước nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn của Trung Quốc và rất thận trọng với việc gây nguy hiểm cho mối quan hệ của họ với Bắc Kinh.
Điều quan trọng là ASEAN không phải là ứng viên duy nhất trong việc di dời chuỗi cung ứng, vì khu vực này phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các nền kinh tế như Mexico và Ấn Độ.
Nói như vậy nhưng cơ hội vẫn ở trên bàn. Mỹ nhận thấy rằng vị trí đơn cực của Trung Quốc trong xuất khẩu hàng hóa trung gian toàn cầu khiến hầu hết các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu (chứ không chỉ của Đông Nam Á) đều phụ thuộc vào nước này.
Do đó, việc tái cơ cấu chuỗi cung ứng để loại trừ Trung Quốc sẽ là một nhiệm vụ lâu dài và khó khăn. Trong khi đó, Washington có thể sẽ vui lòng đưa ra các giải pháp trung gian, bao gồm cả tiến trình giảm vai trò của Trung Quốc trong chuỗi cung ứng các sản phẩm quan trọng.
Vì vậy, các nền kinh tế ASEAN có thể giành được cơ hội, miễn là họ thể hiện sự sẵn sàng hợp tác. Tăng cường hội nhập thương mại theo chiều dọc và giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp từ bên ngoài khu vực sẽ là khởi đầu tốt.
Đông Nam Á có nhiều lợi thế. Cùng với chi phí lao động thấp và trữ lượng lớn các nguyên liệu thô quan trọng như đồng, thiếc và niken, các nền kinh tế ASEAN còn được hưởng lợi từ trình độ học vấn tốt và năng lực sản xuất mạnh mẽ.
Những lợi thế đó được các nước phương Tây nắm bắt nhanh. FDI từ Mỹ đổ vào các nền kinh tế ASEAN lớn hơn gần ba lần so với Trung Quốc trong năm 2021.
Có thể khẳng định sự giảm tốc của Trung Quốc sẽ không báo hiệu kết thúc cho sự thịnh vượng của Đông Nam Á. Một số nền kinh tế trong khu vực, như Indonesia và Việt Nam có thể sẽ cảm nhận được tác động từ sự suy thoái của Trung Quốc nhiều hơn. Nhưng bằng cách tăng cường sự hiện diện của mình trong chuỗi giá trị toàn cầu, các nền kinh tế ASEAN có thể nhận được bù đắp nhiều hơn những tổn thất.
Theo Báo Tin tức/TTXVN