Phát biểu tại Diễn đàn Kịch bản Kinh tế Việt Nam thường niên (Vietnam Economic Scenarios) lần thứ 16 với chủ đề: “Thúc đẩy cơ chế chính sách, thực thi mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới” do Tạp chí Kinh tế Việt Nam - VnEconomy - Vietnam Economic Times và Bộ Ngoại giao phối hợp tổ chức ngày 11/1/2024, ông Nguyễn Đức Hiển, Phó trưởng Ban kinh tế Trung ương cho biết năm nay sẽ đánh giá sơ kết nhiều Nghị quyết quan trọng, như Nghị quyết 10 về kinh tế tư nhân, Nghị quyết 11 về thể chế, Nghị quyết 12 về doanh nghiệp Nhà nước, 5 năm triển khai Nghị quyết 52 về việc chủ động tham gia 4.0 và đánh giá 4 năm triển khai Nghị quyết 45 về năng lượng.
Do đó tại Diễn đàn, Ban Kinh tế Trung ương rất mong muốn lắng nghe những ý kiến của các chuyên gia, tổ chức, doanh nghiệp về việc thực hiện những Nghị quyết trên.
Chính phủ đã tổ chức hội nghị tổng kết 2023 và triển khai hoạt động 2024. Kết quả cho thấy, GDP năm 2023 tăng 5,05%, lạm phát 3,25% - thấp hơn mục tiêu đề ra. Song theo ông Nguyễn Đức Hiển, tăng trưởng GDP thời gian qua của nước ta có sự đóng góp rất quan trọng của đầu tư công là chính, trong khi đó đầu tư tư nhân còn rất thấp, chỉ đạt 2,7%- đây là mức thấp so với giai đoạn từ 2019-2023. So với giai đoạn trước, năm 2019 thấp hơn 6,3 lần, năm 2020 là năm dịch Covid bùng nổ nên giảm thấp hơn 1,1 lần, 2021 là 2,6 lần, 2022 là 3,3 lần.
Từ câu chuyện này, vấn đề đầu tiên cần bàn thảo tại diễn đàn, theo Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, là trong thời gian tới chúng ta cần động lực thúc đẩy đầu tư tư nhân thông qua hoạt động kích cầu đầu tư là vô cùng quan trọng. Chính sách sẽ là gì?
Qua việc triển khai báo cáo các bộ ngành, ông Nguyễn Đức Hiển thấy rằng các cơ chế chính sách đặc biệt cho khu vực kinh tế tư nhân còn rất nhiều rào cản, chính sách chưa đưa vào thực tiễn được. Việc thúc đẩy các cơ chế chính sách nhằm tạo ra các động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế là vô cùng quan trọng.
Có được kết quả trên, chúng ta không phủ nhận sự nỗ lực, cố gắng chung của tất cả hệ thống. Mặc dù vậy, nói một cách thẳng thắn, ông Nguyễn Đức Hiển cho rằng lĩnh vực công nghiệp trong tăng trưởng chúng ta mất hoàn toàn vị trí vai trò là chủ đạo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Công nghiệp giai đoạn 2019-2023, kể cả 2 năm khủng hoảng lớn, công nghiệp vẫn có đóng góp giá trị cao, nhưng năm nay công nghiệp mất vai trò động lực.
Vấn đề thứ hai, những có chế chính sách nào để vực dậy lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo quan trọng của Việt Nam. Trong khi đó, đặc điểm của tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào khu vực FDI và xuất khẩu đặc biệt trong lĩnh vực chế biến, chế tạo. Do đó, cần chính sách gì, cơ chế gì?
Ông Nguyễn Đức Hiển cho rằng về dài hạn, trong Nghị quyết 29 ban hành năm 2022 của Ban Chấp hành Trung ương khoá 13 đã đưa ra định hướng dài hạn trong phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nghị quyết đặt ra nhiều chương trình, nhiệm vụ như xây dựng, tăng cường năng lực sản xuất, thiết kế, chế tạo Việt Nam (Make in Vietnam).
Tuy nhiên, chúng ta cần xem các cơ chế, chính sách này đã làm được những gì, làm đến đâu. Chúng ta cũng đặt ra các mục tiêu về các cơ chế, chính sách thúc đẩy 6 ngành công nghiệp nền tảng. Một trong những ngành có nhiều thuận lợi khi chúng ta đặt quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ là công nghiệp công nghệ số trong đó có công nghiệp bán dẫn, vậy chính sách là gì, triển khai cơ chế chính sách ra sao?
Cũng trong lĩnh vực công nghiệp, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 52 (ban hành tháng 9/2019) về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, trong đó đặt ra nhiệm vụ quan trọng là ban hành các cơ chế chính sách thúc đẩy sản xuất thông minh. Câu chuyện này cũng cần được nhìn nhận ra sao trong tăng trưởng công nghiệp.
Vấn đề thứ ba, ông Nguyễn Đức Hiển cho rằng ngành dịch vụ năm nay có sự đóng góp khá vào tăng trưởng kinh tế, đạt mức tăng 6,82% - đóng góp lớn vào giá trị tăng thêm của GDP. Trong đó tính chung cả năm 2023, du lịch Việt Nam đón được 12,6 triệu lượt khách quốc tế. Con số này gấp 3,4 lần năm 2022, vượt xa mục tiêu 8 triệu khách.
Tuy vậy, số lượng này mới chỉ bằng 70% năm 2019 - năm chưa xảy ra dịch Covid-19. Lúc này, câu hỏi đặt ra là cần cơ chế chính sách gì để tăng giá trị thực sự của ngành dịch vụ, cũng như thúc đẩy các ngành dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế kể cả một số lĩnh vực chúng ta đang có chính sách phục hồi nhưng còn khó khăn, như bất động sản…
Vấn đề thứ tư, năm nay chúng ta xuất siêu nhưng một phần do nhập khẩu giảm mạnh, trong khi đó cơ cấu nhập khẩu là các nguyên vật liệu phục vụ sản xuất trong nước. Nhập khẩu giảm mạnh chứng tỏ nội lực nền kinh tế, các yếu tố đang đặt ra nhiều vấn đề, nên chất lượng xuất siêu, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng, đặc biệt trong các thị trường, năm 2023 đạt nhiều thành tựu nhưng lại tăng chủ yếu từ Trung Quốc, còn các thị trường lớn như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ… đều giảm trong khi chúng ta đã tham gia cơ bản các cam kết quốc tế.
Như vậy, việc khai thác các FTA, các thị trường mới đến đâu, đã có chính sách gì cho vấn đề này… “Vấn đề này cần được mổ xẻ cụ thể trong diễn đàn để có những giải pháp làm động lực cho tăng trưởng”, ông Nguyễn Đức Hiển nhấn mạnh.
Vấn đề thứ năm, liên quan tới an sinh việc làm. Tính cả năm 2023, việc làm được đảm bảo hơn, thu nhập tăng hơn nhưng tại sao số lượt chi trả bảo hiểm trợ cấp thất nghiệp lại tăng so với cùng kỳ năm trước. Phải chăng, sự bền vững của việc làm, của các ngành sản xuất là dấu hỏi.
“Chúng tôi thống kê, các trung tâm sản xuất công nghiệp, tình trạng thất nghiệp lại lớn, điều này cũng dễ hiểu vì sản xuất công nghiệp suy giảm tại các trung tâm như Quảng Nam, Bắc Ninh…”, ông Nguyễn Đức Hiển đặt vấn đề. Đâu là những vấn đề cần giải quyết trong dài hạn?
Vấn đề thứ sáu, năm 2023 kinh tế số, chuyển đối số đóng góp quan trọng vào nền kinh tế, quốc tế đánh giá tốc độ tăng của Việt Nam đạt 19% - cao nhất khu vực. Đóng góp của kinh tế số vào GDP cũng tăng, đạt 16,5%. Trong triển khai cũng đạt nhiều vấn đề tốt, nhưng cần xem xét việc thúc đẩy, dịch chuyển chuyển đổi số trong sản xuất thông minh trong lĩnh vực công nghiệp thực chất là gì? Nếu tăng trưởng của kinh tế số vẫn dựa chính chủ yếu là đóng góp giá trị gia tăng từ xuất khẩu của ngành công nghiệp điện tử và mang lại giá trị gia tăng cho Việt Nam không nhiều, thì chúng ta vẫn là gia công.
Tăng của thương mại điện tử nhưng quan trọng là ngành công nghiệp chế biến chế tạo, thúc đẩy chuyển đổi số. 4 năm triển khai Nghị quyết 52 rất nhiều chính sách chưa được thể chế hoá, như triển khai các sandbox vẫn còn vướng, triển khai các cơ chế thử nghiệm có kiểm soát vẫn dừng lại ở các nghị định thì sẽ bế tắc trong thời gian tới. Chúng ta mới loay hoay thí điểm thanh toán không dùng tiền mặt, qua hệ thống thanh toán nhỏ mobile money là chậm tiến… thực chất vướng ở đâu… Hay các cơ chế chính sách cho phát triển, chia sẻ dữ liệu…
Do vậy, theo ông Hiển cần có chính sách thực sự, kích cầu đầu tư đặc biệt đầu tư tư nhân, cần nhìn nhận thẳng thắn chính sách cho đầu tư tư nhân và cả khu vực nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước trừ những dự án khi có sự quyết liệt của Chính phủ, còn lại các doanh nghiệp Nhà nước không có đầu tư mới, họ bế tắc về chính sách cho thúc đẩy đầu tư của chính mình.
Do đó, những vướng mắc về Luật ngân sách, Nghị quyết 69-NQ/QH của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước cần được tháo gỡ, được chia sẻ. Kể cả đầu tư công cũng cần được đánh giá, nhìn nhận. WB đã từng kiến nghị, trong đầu tư công của Việt Nam cần cân nhắc chú trọng đầu tư cho khoa học công nghệ, chuyển đổi số bên cạnh đầu tư cho hạ tầng. Vì đầu tư cho hạ tầng công nghệ, giáo dục chưa được bao nhiêu.
Kích cầu cho tiêu dùng cũng là vấn đề cần bàn thảo, vì chỉ số 9,6% tăng giá bán lẻ rất thấp so với 20% so với năm trước. Gần Tết chi tiêu mua sắm cũng trầm lắng hơn so với năm trước, trong khi đó tiền gửi tăng 13,5 triệu tỷ đồng… Cần có cơ chế đưa dòng tiền này vào sản xuất, đầu tư để phát triển…
Theo Vneconomy