Đồng chí Nguyễn Thanh Nghị, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương trình bày chuyên đề 4
Tại Hội nghị, đồng chí Nguyễn Thanh Nghị, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương trình bày chuyên đề 4: "Nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết số 70-NQ/TW, ngày 20/8/2025 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045".
Về sự cần thiết của Nghị quyết số 70-NQ/TW, đồng chí Nguyễn Thanh Nghị cho biết: sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW, ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, ngành năng lượng đã duy trì tăng trưởng ổn định, cơ bản bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cho phát triển nhanh và bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh đất nước và nâng cao đời sống người dân. Thị trường năng lượng vận hành theo hướng cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả, phù hợp định hướng xã hội chủ nghĩa; việc khai thác, sử dụng, xuất – nhập khẩu năng lượng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả hơn. Năng lượng tái tạo tăng trưởng mạnh, nhiều loại hình mới, kể cả hạt nhân, được quan tâm nghiên cứu. Công nghiệp năng lượng tiến bộ nhanh, nhiều thiết bị nội địa hóa; lưới truyền tải, phân phối điện được hiện đại hóa. Các hoạt động tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường, nghiên cứu – ứng dụng công nghệ cao và phát triển nhân lực chất lượng cao được chú trọng, tạo nền tảng phát triển bền vững.
Tuy vậy, ngành năng lượng vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Một số hạn chế, yếu kém đã được chỉ ra trong Nghị quyết 55-NQ/TW vẫn chưa được khắc phục triệt để. Nhiều chỉ tiêu của Nghị quyết 55-NQ/TW khó đạt được. Thể chế, chính sách, công tác quản lý phát triển ngành năng lượng còn bất cập.
Những thách thức mới được chỉ ra là: (i) Sự phát triển của khoa học, công nghệ và chuyển đổi số đã làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội; (ii) Cạnh tranh địa chính trị, xung đột vũ trang làm đứt gãy chuỗi cung ứng, gây rủi ro cho thị trường năng lượng toàn cầu; (iii) Sự phát triển mạnh mẽ của năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch; (iv) Việc thực hiện cam kết quốc tế giảm phát thải khí nhà kính; (v) Phát triển điện hạt nhân là yêu cầu cấp bách để bảo đảm nguồn điện nền sạch; (vi) Yêu cầu bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, nhất là có đủ điện phục vụ mục tiêu tăng trưởng hai con số trong Kỷ nguyên mới ngày càng trở nên quan trọng và cấp bách.
Đồng chí Nguyễn Thanh Nghị trình bày những tư duy mới của Nghị quyết 70-NQ/TW như: (1) Trong khi Nghị quyết số 55 có tinh thần chủ đạo là định hướng phát triển cho ngành năng lượng quốc gia, thì Nghị quyết số 70 đã đưa ra yêu cầu về bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng cho sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới – một vấn đề an ninh phi truyền thống mới. Xác định rõ an ninh năng lượng là một bộ phận trọng yếu của an ninh quốc gia, gắn trực tiếp với ổn định chính trị, phát triển kinh tế, quốc phòng – an ninh và hội nhập quốc tế; (2) Nghị quyết số 70 thể hiện tầm tư duy chiến lược khi chuyển từ quan niệm “bảo đảm cung ứng” sang “bảo đảm vững chắc và chủ động an ninh năng lượng” với tầm nhìn chiến lược, dài hạn, đa chiều; (3) Nghị quyết số 70 đề ra những mục tiêu cụ thể, được lượng hóa rõ ràng và sát với thực tế để bảo đảm thực hiện đáp ứng yêu cầu, đúng tiến độ; (4) Nghị quyết số 70 tuân thủ nguyên tắc "phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa": Phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch, từng bước xóa bỏ bao cấp, bù chéo, điều chỉnh giá năng lượng theo thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực tư nhân, tham gia toàn diện vào sản xuất, phân phối và cung ứng dịch vụ năng lượng; (5) Bảo đảm an ninh năng lượng theo phương thức: Đa dạng hóa nguồn và công nghệ; ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, LNG, hydrogen, điện hạt nhân hiện đại; khuyến khích nghiên cứu – phát triển và nội địa hóa công nghệ năng lượng, hình thành chuỗi giá trị trong nước; (6) Phát triển năng lượng trên nguyên tắc có sự gắn kết chặt chẽ giữa an ninh năng lượng với phát triển KTXH, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, thực hiện các cam kết quốc tế: Xây dựng dự trữ năng lượng chiến lược, hệ thống hạ tầng truyền tải đồng bộ, thông minh; lồng ghép mục tiêu giảm phát thải, ứng phó biến đổi khí hậu, thực hiện cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050; gắn phát triển năng lượng với bảo vệ môi trường, an sinh xã hội và hội nhập quốc tế; (7) Nghị quyết số 70 đã cập nhật, cụ thể hoá các quan điểm chỉ đạo của Đảng tại các Nghị quyết trụ cột về hoàn thiện thể chế; phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phát triển kinh tế tư nhân; hội nhập quốc tế liên quan đến bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương Nguyễn Thanh Nghị nhấn mạnh về 05 nhóm quan điểm chỉ đạo: (1) Nhóm quan điểm thứ nhất thể hiện quan điểm đảng lãnh đạo và định hướng tổng thể:Đảng lãnh đạo toàn diện, Nhà nước kiến tạo thể chế – chính sách đột phá, kiểm soát hạ tầng chiến lược. Người dân, doanh nghiệp là trung tâm, chủ thể phát triển; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tư nhân là động lực quan trọng. An ninh năng lượng là nền tảng, bộ phận cốt lõi của an ninh quốc gia; phát triển năng lượng là ưu tiên hàng đầu, gắn với mục tiêu tăng trưởng 10% và hai mục tiêu 100 nămcủa đất nước. (2) Nhóm quan điểm thứ hai- Gắn phát triển năng lượng với thể chế thị trường định hướng XHCN: Gắn kết chặt chẽ: kinh tế – xã hội – quốc phòng – an ninh – môi trường – cam kết quốc tế. Xây dựng thị trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch, đa sở hữu. Giá năng lượng theo cơ chế thị trường, xóa bỏ bù chéo. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, đặc biệt tư nhân, tham gia bình đẳng. (3) Nhóm quan điểm thứ ba- Đa dạng hóa và tối ưu hóa cơ cấu năng lượng: Phát triển đồng bộ các loại hình: tái tạo, mới, sạch; khai thác hợp lý năng lượng hóa thạch. Ưu tiên điện tái tạo, điện hạt nhân…; giảm dần điện than theo lộ trình. Bảo đảm dự trữ quốc gia, cân đối vùng miền, tối ưu hóa hệ thống. (4) Nhóm quan điểm thứ tư - Thúc đẩy sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững: Khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, giảm phát thải, bảo vệ môi trường. Vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của toàn xã hội. Đẩy mạnh đầu tư công nghệ, thiết bị tiết kiệm – thân thiện môi trường; gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. (5) Nhóm quan điểm thứ năm- Ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là phương thức đột phá bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng: Ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo để phát triển nhanh và bền vững. Làm chủ công nghệ hiện đại, từng bước tự chủ công nghệ năng lượng nguyên tử. Phát triển năng lực nội địa hóa thiết bị, vừa phục vụ trong nước, vừa hướng tới xuất khẩu.
Về mục tiêu, tầm nhìn: Đến năm 2030, Nghị quyết đặt mục tiêu vừa đủ cung ứng – hiện đại hóa hệ thống điện – đẩy mạnh năng lượng tái tạo – bảo đảm cung ứng đủ xăng dầu và LNG – nâng cao hiệu quả và giảm phát thải. Đến năm 2045, hướng tới một nền năng lượng bền vững, thông minh, cạnh tranh, hiện đại ngang tầm thế giới.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2030: Cung – cầu năng lượng: Tổng cung sơ cấp 150–170 triệu tấn dầu quy đổi; công suất điện 183–236 GW; sản lượng điện 560–624 tỉ kWh; năng lượng tái tạo chiếm 25–30%. Tiêu thụ cuối cùng 120–130 triệu tấn dầu quy đổi. Hệ thống điện: Hiện đại, thông minh, đạt tiêu chuẩn an toàn khu vực; cung cấp điện tin cậy theo tiêu chí N-1 và N-2; chỉ số tiếp cận điện năng thuộc tốp 3 ASEAN. Xăng dầu và khí: Lọc dầu đáp ứng ≥70% nhu cầu trong nước; dự trữ đạt 90 ngày nhập ròng. Hình thành trung tâm LNG vùng miền, đủ năng lực nhập khẩu phục vụ điện khí và nhu cầu khác. Hiệu quả – môi trường: Tiết kiệm năng lượng đạt 8–10% so với kịch bản thường; giảm phát thải khí nhà kính 15–35%.
Tầm nhìn đến năm 2045: Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, coi đây là trụ cột của an ninh quốc gia; Xây dựng thị trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch, bình đẳng, hiệu quả, phù hợp thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; Ngành năng lượng đồng bộ, bền vững, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, giảm phát thải và thích ứng biến đổi khí hậu; Hạ tầng thông minh, hiện đại, kết nối khu vực – quốc tế; nguồn nhân lực, khoa học – công nghệ và quản trị ngang tầm các nước công nghiệp phát triển.
Đồng chí Nguyễn Thanh Nghị trình bày 07 nhóm nhiệm vụ, giải pháp lớn của Nghị quyết 70-NQ/TW như: (1) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự tham gia của cả hệ thống chính trị và Nhân dân trong bảo đảm an ninh năng lượng; (2) Hoàn thiện thể chế, chính sách để trở thành lợi thế cạnh tranh, nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển năng lượng; (3) Phát triển nguồn cung và hạ tầng năng lượng, bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng; (4) Đẩy mạnh tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, thực hiện linh hoạt cam kết quốc tế về giảm phát thải; thiết lập các biện pháp quản trị và ứng phó với rủi ro; (5) Tập trung huy động mọi nguồn lực xã hội, khuyến khích mạnh mẽ khu vực tư nhân tham gia phát triển năng lượng; (6) Tạo đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng; (7) Tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững ngành năng lượng và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Về tổ chức thực hiện: Các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, các ban đảng tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết tới cán bộ, đảng viên; xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết. Các cấp ủy, chính quyền địa phương chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát các dự án đầu tư năng lượng trên địa bàn theo quy định. Đảng ủy Quốc hội lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật để tạo thuận lợi cho phát triển năng lượng quốc gia theo tinh thần của Nghị quyết; tăng cường giám sát việc xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch và các chính sách phát triển năng lượng quốc gia; bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới. Đảng ủy Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia và các chiến lược phát triển các phân ngành năng lượng, Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia, Quy hoạch điện VIII điều chỉnh phù hợp với tinh thần của Nghị quyết; trình Quốc hội sửa đổi, ban hành các luật có liên quan tạo môi trường thuận lợi cho phát triển, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia; trường hợp cần thiết, trình Quốc hội ban hành Nghị quyết chuyên đề về các cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030; ưu tiên bố trí đủ nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ đã nêu trong Nghị quyết. Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương và các cơ quan liên quan hướng dẫn việc quán triệt thực hiện Nghị quyết. Ban Chính sách, chiến lược Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thường xuyên theo dõi, hướng dẫn kiểm tra, giám sát, đôn đốc triển khai thực hiện Nghị quyết; định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Tổng Bí thư Tô Lâm có phát biểu chỉ đạo quan trọng tại Hội nghị.
Tại Hội nghị, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài phát biểu chỉ đạo quan trọng. Tổng Bí thư nhấn mạnh tầm quan trọng của việc triển khai các Nghị quyết 59-NQ/TW, 70-NQ/TW, 71-NQ/TW, 72-NQ/TW. Trong đó, về Nghị quyết 70-NQ/TW, Tổng Bí thư nêu rõ, mục tiêu cốt lõi là hệ thống năng lượng phải an toàn, ổn định, có dự phòng tin cậy; cung cấp đủ cho sản xuất và đời sống; chuyển dịch theo hướng xanh, phát thải thấp; vận hành thông minh trên nền tảng số và đảm bảo chi phí hợp lý, minh bạch. Từ nay đến 2030, chúng ta phấn đấu dự phòng công suất tối thiểu 15%, giảm tổn thất điện năng đáng kể; tăng tỷ trọng năng lượng sạch phù hợp quy hoạch; xây dựng các cơ chế thị trường điện cạnh tranh, minh bạch, có lộ trình vững chắc.
Tổng Bí thư nhấn mạnh về 10 nhóm giải pháp trọng điểm. Một là, cân bằng cung-cầu theo vùng, cập nhật quy hoạch đồng bộ nguồn-lưới, chốt danh mục dự án then chốt. Hai là, đầu tư mạnh mẽ truyền tải và lưu trữ-nhất là các tuyến 500kV, lưới thông minh, thí điểm hệ thống lưu trữ năng lượng tại các nút nghẽn. Ba là, huy động vốn đa dạng: đối tác công-tư, trái phiếu xanh, hợp đồng mua bán điện với phân bổ rủi ro hợp lý; áp dụng cơ chế thanh toán theo công suất khả dụng cho các nguồn linh hoạt. Bốn là, phát triển thị trường điện cạnh tranh theo lộ trình, chuẩn hóa cơ chế giá tham chiếu dài hạn, nâng cao minh bạch. Năm là, đa dạng hóa nhiên liệu và dự phòng LNG, đảm bảo năng lực kho, tuyến ống, hợp đồng dài hạn, dự phòng than/khí chiến lược. Sáu là, thúc đẩy hiệu quả năng lượng và quản lý nhu cầu, áp dụng giá theo thời gian sử dụng, yêu cầu tiết kiệm bắt buộc ở phụ tải lớn. Bảy là, phát triển năng lượng tái tạo theo "tư duy hệ thống": đấu thầu cạnh tranh, quy hoạch đồng bộ nguồn-lưới-lưu trữ, chia sẻ chi phí đấu nối công bằng. Tám là, bảo vệ nhóm dân cư dễ bị tổn thương và bảo đảm điện cho công nghiệp nền tảng thông qua các gói hỗ trợ mục tiêu, có thời hạn, minh bạch nguồn bù. Chín là, chuyển đổi số ngành điện: đo xa, dữ liệu thời gian thực, dự báo phụ tải bằng trí tuệ nhân tạo, bảo đảm an ninh mạng. Mười là, phát triển nhân lực và nội địa hóa: đào tạo kỹ sư hệ thống, công nghiệp phụ trợ.
Xác định đột phá trong chiến lược bảo đảm an ninh năng lượng, phát triển bền vững và hiện thực hóa cam kết Net Zero vào năm 2050. Chú trọng ba điểm: Cải cách thể chế; tạo thuận lợi thu hút nguồn lực xã hội, nhất là khu vực kinh tế tư nhân tham gia vào đầu tư năng lượng tái tạo, truyền tải, phân phối điện. Bảo đảm nguyên tắc phát triển năng lượng phải phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, an sinh xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường phát triển.
Quang cảnh Hội nghị tại Hội trường Diên Hồng
Văn phòng Ban