Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của tỉnh Quảng Nam
Ngày 01/7/2022, Thường trực Ban Chỉ đạo Tổng kết Nghị quyết số 39-NQ/TW phối hợp với Tỉnh ủy Quảng Nam tổ chức Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của tỉnh Quảng Nam. Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban chỉ đạo chủ trì hội nghị. Đồng chủ trì có đồng chí Phan Việt Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam. Tham dự Hội nghị một số đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đại diện lãnh đạo một số ban, bộ, ngành, thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ Biên tập Tổng kết Nghị quyết; đại diện lãnh đạo Ủy ban Nhân dân, các sở, ban, ngành của tỉnh Quảng Nam.
Đồng chí Trần Tuấn Anh phát biểu chỉ đạo
Đây là Hội nghị được tổ chức nhằm triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị về việc tổng kết các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh các vùng kinh tế.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, đồng chí Phan Việt Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam nhấn mạnh: Quảng Nam xuất phát điểm là tỉnh thuần nông, là một trong những địa phương nghèo nhất cả nước trong thời điểm vừa chia tách và là nơi thường xuyên chịu ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai, bão lũ nên khó khăn chồng khó khăn. Với truyền thống cách mạng “trung dũng, kiên cường”, ý chí quyết tâm, chung sức, đồng lòng, sau hơn 25 năm xây dựng và phát triển (1997 - 2022), gần 20 năm thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW, 10 năm thực hiện Kết luận số 25-KL/TW; Quảng Nam đã từng bước liên kết, hợp tác phát triển KT-XH với các tỉnh khu vực miền Trung và Tây Nguyên; đoàn kết, thống nhất, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thách thức, vươn lên trong từng giai đoạn đổi mới và đạt nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực, đưa Quảng Nam từ một tỉnh thuần nông, chậm phát triển vươn lên thành một tỉnh khá trong khu vực, có quy mô nền kinh tế đạt gần 103 nghìn tỷ đồng (năm 2021), tăng gấp 14,5 lần so với năm 2004.
Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam cũng đề nghị các đại biểu phát huy tinh thần trách nhiệm, tham gia thảo luận, đánh giá đúng thực chất những ưu điểm, kinh nghiệm hay, cách làm tốt; nhận diện rõ hơn cơ hội, thách thức để tận dụng, phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh trong định hướng phát triển toàn diện tỉnh nhà. Đồng thời, đề xuất, kiến nghị với Trung ương các giải pháp chiến lược để phát triển vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ nhanh, bền vững.
Đoàn chủ tọa hội nghị
Báo cáo tại Hội nghị, đồng chí Nguyễn Hồng Quang, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND Tỉnh thông tin: Thực hiện Nghị quyết 39-NQ/TW, Kết luận 25-KL/TW của Bộ Chính trị, tốc độ tăng trưởng kinh tế qua từng giai đoạn luôn duy trì ở mức khá. Mặc dù năm 2020, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến tất cả các lĩnh vực KT-XH, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2005 - 2020 vẫn đạt trên 10%/năm vẫn đạt trên mức tăng trưởng GDP bình quân cả nước. Quy mô nền kinh tế của tỉnh ngày càng mở rộng, GRDP (theo giá hiện hành) năm 2021 đạt 103 nghìn tỷ đồng, gấp 14,5 lần so với năm 2004. Quy mô GRDP bình quân cả giai đoạn 2004 - 2019 đạt 45,7 nghìn tỷ đồng/năm, giai đoạn 2004 - 2020 đạt gần 48,8 nghìn tỷ đồng. So với các tỉnh khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ về quy mô GRDP cho cả hai giai đoạn 2004 - 2019 và 2004 - 2020, Quảng Nam đều đứng vị thứ 5/14 tỉnh, thành phố. Riêng quy mô GRDP năm 2021, Quảng Nam đứng thứ 02 (sau Đà Nẵng) so với 05 tỉnh thuộc Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, xếp vị thứ 4/14 tỉnh, thành phố khu vực Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung; xếp vị thứ 18/63 tỉnh, thành phố trong cả nước; là 1 trong 18 tỉnh, thành có số thu ngân sách điều tiết về ngân sách Trung ương.
Đồng chí Phan Việt Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam báo cáo hội nghị
Về tình hình hợp tác, liên kết phát triển vùng, thực hiện chủ trương liên kết phát triển Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung, Quảng Nam cũng đã chủ động trong liên kết xúc tiến, thu hút đầu tư, xúc tiến thương mại; liên kết phát triển cơ sở hạ tầng giao thông; văn hóa - xã hội. Theo đó, phối hợp tổ chức các hội thảo về: Phát triển hệ thống và trung tâm logistics; hợp tác, phát triển các KKT và các KCN trong vùng; xúc tiến đầu tư, quảng bá du lịch; phối hợp với các địa phương trong khu vực miền Trung, Tây Nguyên tổ chức các hoạt động về xúc tiến thương mại và khuyến công; Hội nghị kết nối cung cầu (năm 2017); Hội chợ triển lãm Công Thương duyên hải miền Trung (năm 2017); qua đó, tăng cường kết nối các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân hợp tác trong sản xuất, cung ứng, tiêu thụ hàng hóa, thương mại và dịch vụ...
Tại Hội nghị, đại diện một số sở, ngành của Quảng Nam, nhất là đại diện lãnh đạo một số bộ, ngành Trung ương, thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ Biên tập đã tham luận, trao đổi, đề cập tới nhiều nội dung quan trọng, cụ thể về: Quy hoạch phát triển kinh tế biển tỉnh Quảng Nam; phát triển hệ thống giao thông; giải pháp phát triển du lịch; bảo đảm quốc phòng, an ninh; chính sách cho vùng miền núi; cơ chế đặc thù cho tỉnh có nhiều huyện miền núi khó khăn...
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Tổng kết Nghị quyết số 39-NQ/TW đánh giá cao Báo cáo tổng kết của tỉnh Quảng Nam đã bám sát các nội dung Nghị quyết 39-NQ/TW và yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra của Ban Chỉ đạo. Đồng chí Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cũng đánh giá cao các đại biểu đã tham luận, đóng góp, đề xuất, kiến nghị rất trách nhiệm, đúng và trúng thực tiễn hiện nay của Quảng Nam.
Quang cảnh hội nghị
Bày tỏ vui mừng trước những kết quả đạt được của Quảng Nam: Trong gần 20 năm qua, Đảng bộ tỉnh Quảng Nam đã bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp được nêu trong Nghị quyết 39-NQ/TW và Kết luận số 25- KL/TW; vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành; cụ thể hóa nội dung Nghị quyết thành các Kế hoạch, Chương trình, Đề án và đã hoàn thành được phần lớn các chỉ tiêu, mục tiêu đề ra trên địa bàn tỉnh. Những thành tựu đã đạt được cho thấy Nghị quyết 39-NQ/TW đã đi vào cuộc sống và sau gần 20 năm thực hiện Nghị quyết, diện mạo của Quảng Nam thay đổi rõ nét, điều này thể hiện sự năng động, sáng tạo và sự nỗ lực của Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Quảng Nam nhất là trong việc xác định đúng và tập trung vào các tiềm năng, lợi thế của địa phương trong bối cảnh xuất phát điểm thấp và nhiều khó khăn, thách thức. Một số kết quả nổi bật như:
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2005-2020 đạt 8,3%/năm[1], cao hơn bình quân chung cả nước[2]. Quy mô nền kinh tế năm 2020 tăng gấp 3,66 lần so với 2004. GRDP bình quân đầu người liên tục tăng, năm 2020 đạt 50,4 triệu đồng, đến năm 2021 đạt 51,4 triệu đồng/người, tăng gấp 9,7 lần so với năm 2004. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng khá, giai đoạn 2005-2020 tăng khoảng 13,5%, trong đó vốn khu vực tư nhân vốn ngoài ngân sách nhà nước chiếm khoảng trên 70%[3]. Năng suất lao động tăng nhanh, giai đoạn 2004-2020 đạt khoảng14,6%.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, đúng hướng theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng nông nghiệp[4] (theo đúng tinh thần của Nghị quyết 39-NQ/TW) với các điểm sáng là: (i) có 05 KCN đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh với diện tích 430,68 ha; tỷ lệ lấp đầy bình quân đạt 88,71%; (ii) Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp bình quân giai đoạn 2005-2020 khoảng 4,86%; (iii) Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ (giá hiện hành) năm 2020 đạt 34.876 tỷ đồng, gấp 11,7 lần so với năm 2004. Tổng lượt khách du lịch năm 2019 đạt 1.830.000 lượt khách, tăng gấp 25,96 lần so với năm 2004[5]; tổng doanh thu từ hoạt động du lịch theo năm 2019 đạt 1.940 tỷ đồng, gấp 130 lần so với năm 2004[6].
Thứ ba, cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, vận tải được tập trung đầu tư một cách đồng bộ, có trọng điểm và đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh; trong đó mạng lưới giao thông đường bộ với tổng chiều dài 5.715km[7]; kết nối thông suốt, thuận lợi với các tỉnh lân cận, mở ra cơ hội giao thương, liên kết phát triển liên vùng, phát triển kinh tế biển[8].
Thứ tư, văn hóa - xã hội được quan tâm, đạt nhiều kết quả tích cực; bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy, nhiều lễ hội văn hóa của các dân tộc được duy trì tổ chức hằng năm. Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ, nhiều chỉ số cơ bản về y tế và sức khỏe của nhân dân đạt mức tốt hơn so với bình quân chung cả nước[9]. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2020 đạt 70.05%[10]; giải quyết việc làm hàng năm bình quân 25.000 lao động/năm. Công tác xóa đói giảm nghèo, thực hiện các chính sách an sinh xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời; tỷ lệ nghèo đa chiều đến năm 2021 còn 1,96%[11]. Đời sống nhân dân trong Tỉnh không ngừng được cải thiện.
Thứ năm, Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị có tiến bộ; nội bộ đoàn kết nhất trí, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc.
Tuy nhiên, đồng chí Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cũng cho rằng, bên cạnh những kết quả đạt được, Quảng Nam vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: Đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng còn chậm. Tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu theo chiều rộng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thật sự trở thành động lực để nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của sản phẩm. GRDP bình quân đầu người còn thấp so với cả nước. Công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, thiếu nguyên liệu sản xuất tại chỗ. năng suất cây trồng, vật nuôi và chất lượng sản phẩm nông nghiệp còn thấp và phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu. Chuyển dịch nội bộ cơ cấu sản xuất nông nghiệp và nông thôn còn chậm; ngành chăn nuôi phát triển chậm.
Môi trường đầu tư chậm cải thiện; cải cách hành chính chưa đồng bộ; phối hợp của các ngành và địa phương trong công tác xúc tiến đầu tư thiếu chặt chẽ. Nguồn lực đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, vốn đầu tư chủ yếu vẫn từ ngân sách nhà nước, Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, chưa gắn với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, còn tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, thủy lợi, giao thông và hạ tầng đô thị. Huy động vốn ngoài Nhà nước cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng theo phương tức đối tác công tư và hình thức PPP còn nhiều bất cập, nhất là phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Quy hoạch, khai thác và sử dụng chưa hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên; khai thác tráp phép lâm sản, khoáng sản vẫn còn xảy ra; ô nhiễm môi trường tại một số cơ sở sản xuất, cụm công nghiệp, làng nghề, một số khu dân cư, lưu vực sông vẫn còn xảy ra. Nhận thức về hội nhập quốc tế, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững ở một bộ phận người dân và doanh nghiệp chưa cao.
Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; tỷ lệ lao động chuyên môn kỹ thuật, đặc biệt lao động có trình độ kỹ thuật cao còn thấp; cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý; sự chuyển dịch lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm; tỷ lệ lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ cao...
Những hạn chế kể trên có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu, nhất là nhận thức về tiềm năng, lợi thế và vai trò, vị trí và tầm quan trọng của tỉnh; nguồn lực đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu; một số chính sách khai thông các nguồn lực chưa được ban hành kịp thời, chưa mang tính đột phá, chưa thực sự phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của địa phương. Quảng Nam vẫn chưa phát huy được ở mức cao nhất các tiềm năng, lợi thế cho phát triển, nhất là tiềm năng, lợi thế về tài nguyên biển, đảo; tài nguyên văn hoá, con người…
Đồng chí Trần Tuấn Anh nêu rõ: Ban Kinh tế Trung ương được giao chủ trì Đề án Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và Kết luận số 25-KL/TW, ngày 02/8/2012 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW. Để triển khai Đề án, Ban Kinh tế Trung ương đã phối hợp chặt chẽ với 20 ban cán sự đảng, đảng ủy trực thuộc Trung ương và thường trực tỉnh ủy, thành ủy của 14 địa phương trong vùng để thành lập Ban Chỉ đạo và ban hành Kế hoạch số 81-KH/BKTTW, ngày 16/5/2022 phục vụ việc tổng kết; trong đó Hội nghị tổng kết và Báo cáo tổng kết của địa phương là một trong những cơ sở quan trọng nhất để Ban Chỉ đạo đề xuất Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.
Đồng chí Trưởng Ban Kinh tế Trung ương đề nghị Đảng bộ tỉnh Quảng Nam thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp như:
Thứ nhất, Phát huy hơn nữa tiềm năng để phát triển Quảng Nam trở thành tỉnh công nghiệp phát triển, mạnh về kinh tế biển. Đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu các ngành kinh tế của tỉnh theo hướng lấy phát triển công nghiệp làm trọng tâm, kinh tế biển là trụ đỡ…
Thứ hai, Phát triển bền vững các tiểu vùng; đẩy mạnh phát triển đô thị, hình thành một mạng lưới đô thị có tầng bậc, liên kết và hỗ trợ phát triển lẫn nhau…
Thứ ba, Khắc phục các hạn chế, yếu kém và tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư coi đây như những “dư địa” cần được khai thác để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Thứ tư, Sớm hoàn thành nhiệm vụ lập quy hoạch tỉnh Quảng Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050, phải có tầm nhìn dài hạn, phù hợp với quy hoạch vùng, quy hoạch quốc gia, quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch không gian biển quốc gia và là công cụ quản lý, hỗ trợ thu hút đầu tư và quản lý phát triển.
Thứ năm, Thứ sáu, phối hợp hoàn thiện thể chế và cơ chế để tăng cường liên kết vùng, nhất là với các địa phương Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung, chủ động hội nhập, mở rộng giao lưu kinh tế, nhất là các tỉnh Duyên hải Trung Bộ, Tây Nguyên và Tam giác phát triển ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia.
Thứ sáu, Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của các cấp ủy và nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; tăng cường xây dựng chỉnh đón Đảng vững mạnh toàn diện; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Thứ bảy, Tăng cường thực hiện nhiệm vụ kết hợp quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tám, bám sát Kế hoạch, Đề cương của Ban Chỉ đạo và ý kiến tham gia, thảo luận tại Hội nghị để hoàn thiện Báo cáo tổng kết Nghị quyết 39-NQ/TW trên địa bàn tỉnh đảm bảo chất lượng và tiến độ đề ra.
Thứ chín, đối với một số kiến nghị của Tỉnh, ngoài những vấn đề đã được lãnh đạo các bộ, ngành trả lời, trao đổi tại Hội nghị, Ban Chỉ đạo giao Thường trực Tổ Biên tập Đề án tổng hợp, báo cáo Ban Chỉ đạo để lựa chọn đưa vào Báo cáo tổng kết Nghị quyết 39-NQ/TW hoặc chuyển cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo đề nghị của Tỉnh.
Đồng chí Trần Tuấn Anh ghi nhận và đánh giá cao về sự chuẩn bị nghiêm túc, có trách nhiệm của Tỉnh uỷ Quảng Nam và sự tham gia tích cực của các bộ, ngành tại Hội nghị. Đồng chí đề nghị Tỉnh ủy Quảng Nam phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan để hoàn thiện Báo cáo tổng kết và tham dự đầy đủ các hoạt động Tọa đàm, Hội thảo và tham gia vào Báo cáo tổng kết, Tờ trình và Dự thảo Nghị quyết mới để phối hợp với Ban Chỉ đạo tham mưu cho Bộ Chính trị những quan điểm và định hướng mới cho phát triển vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng.
Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế