CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG
VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
TS. Nguyễn Viết Lợi
Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính
Tóm tắt: Để thực hiện mục tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017, chính sách tài khóa năm 2017 được điều chỉnh theo hướng thận trọng, chặt chẽ, tiếp tục tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững. Với định hướng trên, bài viết đã rà soát những điều chỉnh chính sách tài chính – NSNN được thực hiện trong 5 tháng đầu năm 2017, từ đó, đánh giá những kết quả đạt được và khó khăn, thách thức trong thực tế thực hiện mục tiêu chính sách. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của chính sách tài khóa đảm bảo thực hiện các mục tiêu tăng trưởng bền vững.
Abstract: In order to achieve objectives of the socio-economic development plan in the year 2017, the fiscal policy shall be adjusted towards a prudent and tight manner, creating a favorable business environment, improving the national capacity, ensuring a safe and sustainable national finance. The paper reviews adjustments of fiscal policy and state budget management in the first 5 months of 2017 and highlights the achievements as well as shortcomings in the implementation. On that basis, it proposes solutions for enhancing the effectiveness of fiscal policy to implement the sustainable development goals.
Chính sách tài khóa là các biện pháp can thiệp của Chính phủ thông qua hệ thống thuế và chi tiêu của Chính phủ nhằm đạt các mục tiêu kinh tế vĩ mô như: tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, ổn định giá cả,… Trong giai đoạn 2011-2016, trước diễn biến của tình hình kinh tế thế giới và trong nước, Đảng ta đã kịp thời có những điều chỉnh chuyển nhiệm vụ trọng tâm phát triển nhanh, bền vững sang ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát[1], theo đó chính sách tài khóa đã được điều chỉnh một cách chủ động, linh hoạt nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho phát triển sản xuất kinh doanh. Trong đó, chính sách thu được điều chỉnh theo hướng tăng cường tiềm lực tài chính cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân kinh doanh thông qua việc giảm bớt nghĩa vụ thuế cho doanh nghiệp và người dân, tạo thêm nguồn lực cho doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh[2]. Chính sách chi được tập trung chi cho con người, đảm bảo an sinh xã hội và xóa đói giảm nghèo trên cơ sở chi tiết kiệm, chặt chẽ. Việc nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực đầu tư công tạo tiền đề cho tăng trưởng, phát triển đất nước cũng được chú trọng. Theo đó vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) và trái phiếu Chính phủ (TPCP) được chú trọng thực hiện theo kế hoạch trung hạn, bố trí tập trung hơn, ưu tiên cho các công trình dự án quan trọng, cấp thiết, sớm hoàn thành, đưa nhanh vào sử dụng để phát huy hiệu quả, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, thất thoát, lãng phí; đồng thời tập trung xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản (XDCB) và thanh toán vốn ứng trước; tăng quyền tự chủ, chủ động đi đôi với tăng cường trách nhiệm các cấp, các ngành trong phê duyệt dự án đầu tư, lựa chọn danh mục và phân bổ vốn cho từng dự án cụ thể theo đúng các mục tiêu, định hướng phát triển; phân bổ vốn đầu tư bảo đảm tính công khai, minh bạch. Cùng với việc nâng cao hiệu quả đầu tư công, việc đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút nguồn lực trong cung cấp dịch vụ công và thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công nhằm giảm gánh nặng cho NSNN, nâng cao chất lượng dịch vụ công được tăng cường trên cơ sở triển khai Nghị định 15/2015/NĐ-CP, Nghị định 16/2015/NĐ-CP. Bên cạnh đó, công tác hoàn thiện quy định pháp luật về quản lý tài sản công cũng được tăng cường. Chế độ quản lý, sử dụng tài sản công từng bước gắn kết giữa việc bảo vệ nguồn lực và khai thác nguồn lực tài sản công[3]...
Với những điều chỉnh trong chính sách tài khóa giai đoạn 2011-2016 đã góp phần thực hiện các mục tiêu mà Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã đề ra, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 12% năm 2011 xuống dưới 4,5% năm 2015; riêng các huyện nghèo giảm từ 58,3% năm 2010 xuống 28% năm 2015; thu nhập bình quân đầu người tăng từ 1.300 USD/người năm 2011 lên 2.109 USD/người năm 2015 và 2.215 USD/người năm 2016. Môi trường kinh doanh được cải thiện nhờ đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là lĩnh vực thuế, hải quan[4]. Doanh nghiệp dần có sự phục hồi, số lượng doanh nghiệp mới thành lập có xu hướng tăng từ 77.500 vào năm 2011 lên 110.100 doanh nghiệp năm 2016. Quy mô vốn/DN cũng có sự cải thiện từ 6,63 tỷ đồng năm 2011 lên 8,1 tỷ đồng năm 2016…
1. Chính sách tài khóa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2017
Tiếp theo xu hướng chính sách tài khóa giai đoạn 2011-2016, năm 2017 là năm bản lề cho việc triển khai thực hiện nhiều quy định pháp luật tài chính ngân sách mới như Luật NSNN, Luật phí và lệ phí, Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020 (Nghị quyết 25/2016/QH14), Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 (Nghị quyết 26/2016/QH14), Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016 – 2020 (Nghị quyết số 24/2016/QH14),… và là năm đầu tiên của thời kỳ ổn định ngân sách 2017-2020. Để thực hiện mục tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017, các Nghị quyết của Trung ương, của Quốc hội, đặc biệt là Nghị quyết 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, chính sách tài khóa năm 2017 đã được thực hiện theo hướng thận trọng, chặt chẽ, tiếp tục tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia gắn với 3 đột phát chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, ngay từ đầu năm Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 01/01/2017 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 14/CT-TTg ngày 19/4/2017 về việc tập trung chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2017. Các điều chỉnh lớn của chính sách tài khóa năm 2017 nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững như sau:
- Về thu NSNN:
Tập trung hoàn thiện thể chế chính sách, pháp luật về thu NSNN. Trong đó, tiếp tục rà soát hệ thống các chính sách thu NSNN để hoàn thiện theo hướng tăng cường tính công khai, minh bạch, giảm thủ tục hành chính thuế, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong khai nộp thuế. Trong quản lý điều hành, tổ chức triển khai thực hiện tốt các Nghị quyết của Trung ương, của Quốc hội, của Chính phủ, các luật như Luật NSNN, Luật phí và lệ phí năm 2015; tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ thu NSNN năm 2017; hạn chế tối đa việc đề xuất, ban hành các chính sách mới làm giảm thu NSNN (trừ các cam kết quốc tế). Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan theo các Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP, Nghị quyết số 36a/NQ-CP, Nghị quyết số 41/NQ-CP nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện cho phát triển doanh nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh[5]. Đẩy mạnh kê khai thuế qua mạng điện tử, thực hiện quy trình thu nộp theo phương thức điện tử tự động tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế cũng như nâng cao hiệu quả trong quản lý thuế[6].
- Về chi NSNN:
Chính sách chi NSNN năm 2017 tiếp tục được thực hiện theo hướng tiết kiệm, chặt chẽ, hiệu quả, gắn với quá trình tái cơ cấu nền kinh tế đặc biệt là tái cơ cấu đầu tư công; Tăng cường phân bổ nguồn lực công trọng tâm, trọng điểm gắn với liên kết vùng kinh tế trọng điểm, tập trung sức lan tỏa của các trung tâm trọng điểm kinh tế vùng. Ngoài ra, năm 2017 thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở từ 1,21 triệu đồng/tháng lên 1,3 triệu đồng/tháng, điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công tăng bằng mức tăng lương cơ sở từ ngày 01/7/2017; chỉ đề xuất ban hành chính sách làm tăng chi NSNN khi thật sự cần thiết và có nguồn đảm bảo.
Trong điều hành chi NSNN thực hiện tiết kiệm triệt để các khoản chi thường xuyên của từng bộ, cơ quan trung ương và địa phương; giảm tối đa kinh phí tổ chức hội nghị, hội thảo, khánh tiết; hạn chế bố trí kinh phí đi nghiên cứu, khảo sát nước ngoài; hạn chế mua sắm ô tô và trang thiết bị đắt tiền; khuyến khích mở rộng việc thực hiện khoán xe công đảm bảo hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong quản lý chi NSNN. Quản lý chặt chẽ và hạn chế tối đa việc ứng trước dự toán NSNN và chi chuyển nguồn sang năm sau. Tăng cường phân bổ nguồn lực công trọng tâm, trọng điểm gắn với liên kết vùng kinh tế trọng điểm. Không chuyển vốn vay về cho vay lại, bảo lãnh Chính phủ thành vốn cấp phát NSNN. Thực hiện nghiêm Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật phòng, chống tham nhũng.
Tăng cường hiệu quả nguồn lực công trong cung cấp dịch vụ công, đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Tập trung xây dựng danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN và quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc các Bộ. Triển khai sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công gắn với lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ công, rà soát các loại phí được chuyển sang thực hiện theo cơ chế giá do Nhà nước định giá[7].
- Cân đối NSNN và quản lý nợ công
Kiểm soát chặt chẽ bội chi NSNN; trong điều hành có biện pháp tích cực để giảm bội chi NSNN. Trong quản lý nợ công, với mục tiêu tăng cường quản lý nợ công, cơ cấu lại nợ công, đã tập trung xây dựng và hoàn thiện Chương trình quản lý nợ trung hạn giai đoạn 2016 - 2018; Kế hoạch vay, trả nợ của Chính phủ và các hạn mức vay nợ năm 2017; Kế hoạch đầu tư vốn TPCP giai đoạn 2017-2020 và năm 2017[8]. Ngoài ra, tập trung hoàn thiện các quy định về giám sát các khoản nợ để đảm bảo nợ công trong giới hạn an toàn; tăng cường quản lý hiệu quả các dự án sử dụng vốn vay[9], tránh thất thoát, lãng phí nguồn lực vay nợ, chủ động bố trí nguồn dự phòng, nguồn trả nợ theo lộ trình, tránh tình trạng nợ quá hạn. Đồng thời, hoàn thiện các quy định về huy động vốn trên thị trường tài chính, đa dạng hóa các sản phẩm TPCP đối với các kỳ hạn dài, tăng nguồn lực cho NSNN, giảm áp lực nợ ngắn hạn, giảm rủi ro nghĩa vụ nợ. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc vay, sử dụng vốn vay và trả nợ, nhất là đối với các khoản vay mới, vay có bảo lãnh của Chính phủ; Bảo đảm nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn quy định.
- Về huy động vốn cho đầu tư phát triển
Năm 2017, phát hành 50.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ để đầu tư cho các công trình, dự án quan trọng, cấp bách trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn. Cho phép chuyển nguồn vốn trái phiếu Chính phủ kế hoạch năm 2016 chưa phân bổ sang năm 2017.
2. Kết quả thực hiện chính sách tài khóa 5 tháng đầu năm 2017
Dự toán NSNN năm 2017 đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 27/2016/QH14 ngày 11/11/2016. Trong đó, tổng số thu cân đối NSNN là 1.212 nghìn tỷ đồng; tổng số chi cân đối NSNN là 1.390 nghìn tỷ đồng; bội chi NSNN là 178,3 nghìn tỷ đồng, tương đương 3,5% GDP (bội chi NSTW là 3,38% GDP và bội chi NSĐP là 0,12% GDP); tổng mức vay của NSNN để bù đắp bội chi NSNN và chi trả nợ gốc của NSNN là 340,15 nghìn tỷ đồng (vay bù đắp bội chi là 183,62 nghìn tỷ đồng; và vay để trả nợ gốc là 156,53 nghìn tỷ đồng). Kết quả thực hiện chính sách tài khóa và nhiệm vụ tài chính NSNN 5 tháng đầu năm 2017 như sau:
- Về thu NSNN
Nhiều khoản thu NSNN đạt tiến độ dự toán và cao hơn so với cùng kỳ năm 2016.
Tổng thu NSNN 5 tháng đầu năm 2017 ước đạt 481.270 tỷ đồng; bằng 39,7% dự toán, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm trước[10]. Trong đó:
Một số khoản thu nội địa có tiến độ thu cao hơn so với dự toán, chủ yếu là các khoản thu từ nhà và đất (đạt 67,7% dự toán, tăng 27,1%), thuế TNCN (đạt 48% dự toán, tăng 24,5%), thu từ phí và lệ phí (đạt 44,6% dự toán, tăng 54,4%) do tác động tích cực của nền kinh tế, tăng trưởng của thị trường bất động sản những tháng đầu năm 2017. Ngoài ra, nguồn thu từ xổ xố kiến thiết cũng đạt mức thu cao, đạt 61,5% dự toán, tăng 10,4% so với cùng kỳ. Một số điều chỉnh chính sách thu NSNN được tiếp tục thực hiện trong năm 2017 đã tạo cơ sở cho nguồn tăng thu NSNN như tăng thuế suất thuế TTĐB đối với rượu, bia; tăng thuế tài nguyên đối với một số loại tài nguyên khoáng sản[11].
Thu từ dầu thô ước đạt 15.415 tỷ đồng, bằng 40,9% dự toán[12], do tác động của giá dầu tăng (giá dầu thô thanh toán bình quân 5 tháng đầu năm 2017 khoảng 54,9 USD/thùng, cao hơn 4,9 USD/thùng so với giá xây dựng dự toán (50 USD/thùng) đã có tác động tích cực đến nguồn thu từ dầu thô[13]).
Thu cân đối từ hoạt động xuất, nhập khẩu ước ước đạt 74.000 tỷ đồng, bằng 41,1% dự toán, tăng 26,9% so với cùng kỳ[14] do tăng trưởng kim ngạch hàng hoá xuất nhập, khẩu tăng cao hơn so với cùng kỳ đã có tác động tốt đến thu NSNN[15].
Tình hình thu NSĐP đạt kết quả tích cực và ở mức cao hơn so với tiến độ dự toán (ước 5 tháng đạt 46,6% dự toán), đảm bảo nguồn lực cho NSĐP. Ước tính cả nước có 47/63 địa phương thu nội địa đạt tiến độ dự toán, trong đó có 25 địa phương đạt trên 44% dự toán; 53/63 địa phương thu cao hơn so với cùng kỳ, 10 địa phương thu thấp hơn so với cùng kỳ.
- Về phân bổ và giao dự toán chi NSNN
Công tác phân bổ và giao dự toán ngân sách cơ bản được thực hiện đúng quy định. Thực hiện Luật NSNN năm 2015, Nghị quyết số 27/2016/QH14 ngày 11/11/2016 của Quốc hội về dự toán NSNN năm 2017 và Quyết định số 2562/QĐ-TTg ngày 31/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ về giao kế hoạch vốn NSNN năm 2017, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã chủ động phân bổ, giao dự toán NSNN năm 2017 cho các dự án đầu tư, các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc. Về cơ bản, các bộ, ngành trung ương và địa phương đã phân bổ ngân sách đảm bảo đúng chế độ và dự toán được giao, thực hiện rà soát, sắp xếp các nhiệm vụ chi, đảm bảo nguồn để thực hiện cải cách tiền lương và thực hiện các mục tiêu ưu tiên theo đúng chế độ quy định.
Chi NSNN đảm bảo nguồn lực thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2017, tổng chi NSNN ước đạt 484.580 tỷ đồng, đạt 34,8% dự toán[16], trong đó chi đầu tư phát triển ước đạt 76.260 tỷ đồng, bằng 21,4% dự toán; chi thường xuyên ước đạt 362.390 tỷ đồng, bằng 40,4 % dự toán.
Công tác kiểm soát chi được tăng cường, đảm bảo chi NSNN đúng mục đích, đối tượng, chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả, đúng chế độ quy định. Trong 5 tháng đầu năm 2017, thông qua công tác kiểm soát chi, ngành Tài chính đã phát hiện khoảng 5.000 khoản chi chưa đảm bảo thủ tục để chi theo quy định và từ chối thanh toán 7,4 tỷ đồng chi thường xuyên, số tiền từ chối thanh toán đối với chi đầu tư là 15,7 tỷ đồng.
Nguồn lực dự trữ nhà nước đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ đột xuất, cấp bách. Công tác xuất, cấp nguồn lực dự trữ nhà nước cho các trường hợp thiên tai khẩn cấp, khôi phục sản xuất… được thực hiện kịp thời. Trong 5 tháng đầu năm 2017, đã xuất cấp 60 nghìn tấn gạo dự trữ quốc gia để cứu trợ, cứu đói cho nhân dân và hỗ trợ học sinh vùng khó khăn
- Về huy động vốn và cân đối ngân sách
Với những kết quả tích cực trong thu NSNN của các địa phương và thực hiện chính sách chi tiết kiệm đảm bảo cân đối NSNN, bội chi NSNN 5 tháng đầu năm 2017 là 3.310 tỷ đồng, bằng 1,86% dự toán. Đây là một tín hiệu tích cực trong thực hiện nhiệm vụ tài chính - NSNN với chính sách tài khóa thắt chặt đảm bảo nguồn lực thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Hoạt động huy động vốn từ thị trường TPCP có những chuyển biến tích cực, danh mục TPCP được cải thiện về kỳ hạn và lãi suất. Tính đến ngày 31/5/2017, KBNN đã thực hiện huy động qua Sở GDCK Hà Nội được 103.396,7 tỷ đồng, bằng 56% kế hoạch, trong đó 100% trái phiếu huy động có kỳ hạn 5 năm trở lên; kỳ hạn vay bình quân là 14,85 năm, cao hơn mức 8,71 năm năm 2016, lãi suất vay bình quân năm là 6,28%/năm, thấp hơn mức 6,49%/năm của năm 2016. Lãi suất phát hành cuối tháng 5/2017 giảm từ 0,03% đến 0,19% đối với tất cả các kỳ hạn so với cuối tháng 4/2017, giảm từ 0,13% đến 0,71% đối với tất cả các kỳ hạn so với cuối năm 2016, giảm chi phí vay cho ngân sách nhà nước. Thực hiện đa dạng hóa các sản phẩm TPCP tại các kỳ hạn dài[17] và hoàn thiện cơ chế quản lý trên thị trường TPCP đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của nhà đầu tư[18], tăng nguồn lực cho NSNN, giảm áp lực nợ trong ngắn hạn, giảm rủi ro thanh khoản.
3. Những thách thức đặt ra
- Về thu NSNN
Vẫn còn những khoản thu, sắc thuế có tiến độ thu đạt thấp so với dự toán, đặc biệt là các khoản thu liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh như thu từ DNNN, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Thu nội địa đạt thấp hơn so với yêu cầu tiến độ dự toán, lũy kế 5 tháng đầu năm đạt 388.260 tỷ đồng, bằng 39,2%[19] dự toán; trong đó, một số khoản thu lớn có liên quan đến hoạt động sản xuất – kinh doanh đạt thấp, đặc biệt là thu từ khu vực DNNN (chủ yếu nguồn thu của NSTW) chỉ đạt 29,1% dự toán và thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn ĐTNN đạt 36,1% dự toán, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 39,8% dự toán. Nguyên nhân chủ yếu do tăng trưởng kinh tế quý I/2017 đạt thấp (chỉ tăng 5,1%) đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tăng trưởng của một số ngành công nghiệp có đóng góp số thu lớn cho ngân sách như khai khoáng, điện tử, điện thoại, chế biến thực phẩm… đạt thấp. Ngoài ra, việc điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu theo lộ trình cam kết tại các FTA cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất của các DN có vốn ĐTNN đặc biệt là các doanh nghiệp có số thu nộp NSNN lớn như Honda, Toyota[20]… Ngoài ra, tiến độ thu đạt thấp, đặc biệt là thu từ khối DNNN có tác động mạnh đến thu ngân sách Trung ương khi thực hiện thu NSTW 5 tháng đầu năm 2017 mới đạt có 35,7% dự toán.
- Về phân bổ và giao dự toán chi và thực hiện chi NSNN
Vẫn còn trường hợp chưa phân bổ hết dự toán NSNN, giao dự toán còn chậm. Việc giao kế hoạch vốn đầu tư từ nguồn NSNN và TPCP vẫn còn chậm, cuối tháng 4 mới bắt đầu giao đợt 2 vốn NSNN và việc giao kế hoạch vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN cho các bộ, ngành, địa phương mới đạt 95%. Ngoài ra, đến cuối tháng 4, Quốc hội mới thông qua danh mục và mức vốn TPCP cho từng dự án nên kế hoạch vốn mới giao được 18% dự toán. Trong tháng 5, các bộ, ngành và địa phương vẫn còn đang triển khai phân bổ đến từng dự án để thực hiện. Ngoài ra, còn 3.600 tỷ đồng vốn chương trình mục tiêu và chương trình mục tiêu quốc gia chưa được Quốc hội phân bổ[21].
Tiến độ giải ngân vốn đầu tư từ NSNN và TPCP đạt thấp ở nhiều bộ, ngành, địa phương. Tiến độ giải ngân vốn đầu tư 5 tháng đầu năm 2017 mới đạt 21,4% so với kế hoạch vốn năm 2017[22], đặc biệt kế hoạch vốn TPCP năm 2017 chưa giải ngân do chi tiết kế hoạch vốn mới được giao cuối tháng 4, và còn 3.600 tỷ đồng chưa được Quốc hội phân bổ[23]. Trong 5 tháng đầu năm, một số bộ, ngành và địa phương còn đang thực hiện các thủ tục về đấu thầu, lựa chọn nhà thầu, chưa có khối lượng để thanh toán; một số dự án còn vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng và tái định cư, một số dự án chưa được chủ đầu tư nghiệm thu và hoàn thiện thủ tục thanh toán vốn tại KBNN. Nếu vẫn tiếp tục duy trì tiến độ giải ngân như 5 tháng đầu năm 2017 sẽ là một áp lực lớn cho NSNN trong những tháng cuối năm. Do đó trong thời gian tới cần bám sát tình hình, có những biện pháp tháo gỡ khó khăn nhằm đẩy nhanh việc thanh toán, quyết toán các chương trình, dự án đầu tư.
Tốc độ tăng chi có thể cao trong những tháng cuối năm. Về cơ bản, chi NSNN vẫn tiếp tục được thực hiện theo hướng tiết kiệm chặt chẽ, tuy nhiên áp lực tăng chi sẽ cao vào những tháng cuối năm khi thực hiện điều chỉnh tiền lương cơ sở, trợ cấp BHXH từ ngày 01/7/2017. Đồng thời, thực hiện mục tiêu cơ cấu lại chi NSNN theo Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 theo hướng tăng tỷ lệ chi đầu tư trong tổng chi NSNN cũng tạo áp lực trong điều chỉnh chi NSNN, đặc biệt là chi thường xuyên.
- Về huy động vốn và cân đối ngân sách
Công tác huy động vốn năm 2017 cũng có khả năng đối mặt với một số thách thức trong việc huy động các nguồn vốn ODA, vay ưu đãi nước ngoài với chi phí thấp khi Việt Nam tốt nghiệp IDA trong năm nay. Ngoài ra, việc FED tăng lãi suất thêm 0,25% trong tháng 3/2017 cũng tác động tới tỷ giá giữa VND và USD và ảnh hưởng tới lãi suất huy động vốn.
Bội chi NSNN sẽ khó giữ được mức Quốc hội quyết định (3,5% GDP): Mặc dù trong 5 tháng đầu năm cân đối ngân sách tích cực nhưng nếu triển vọng tăng trưởng kinh tế không đạt mức kế hoạch sẽ ảnh hưởng lớn tới thu NSNN, từ đó tác động tới cân đối ngân sách. Thách thức tăng bội chi NSNN năm 2017 do theo quy định của Luật Đầu tư công, vốn đầu tư công được thực hiện thanh toán trong 2 năm nên một số dự án chưa thực hiện thanh toán kế hoạch vốn năm 2016 sẽ chuyển sang thanh toán vào năm 2017; ngoài ra một số trường hợp phải kéo dài số dư dự toán vốn vay ODA năm 2016 sang năm 2017 để thực hiện cam kết với nhà tài trợ. Ngoài ra, áp lực tăng chi NSNN từ chi thường xuyên vào những tháng cuối năm cũng ảnh hưởng mạnh đến khả năng cân đối, đảm bảo NSNN (đặc biệt là NSTW).
4. Một số giải pháp tăng cường hiệu quả chính sách tài khóa nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng bền vững.
Một là, tiếp tục thực hiện các giải pháp về tài chính - NSNN nêu tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2017 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2017 của Chính phủ; Chỉ thị 14/CT-TTg ngày 19/4/2017 về việc tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính – NSNN năm 2017; Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày 06/02/2017 về tình hình thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020 và các nhiệm vụ tại Kế hoạch hành động của Bộ Tài chính thực hiện hai Nghị quyết trên. Ngoài ra, cần tiếp tục thực hiện các giải pháp nêu tại Nghị quyết số 60/NQ-CP ngày 08/07/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoach vốn đầu tư công năm 2016, Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/05/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Trong đó chú trọng vào các giải pháp, nhiệm vụ nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Tổ chức thực hiện tốt các luật về thuế, Luật NSNN và Luật Đầu tư công… cùng với việc thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết, Kết luận của Quốc hội về cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại NSNN và nợ công…
Hai là, chủ động theo dõi diễn biến kinh tế, tài chính, ngân sách để có những dự báo và phản ứng chính sách tài khóa kịp thời; tiếp tục phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phát triển; trong điều hành thu NSNN cần tạo sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan trong thực hiện quản lý thu NSNN; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế, quản lý chặt chẽ hoàn thuế; đẩy mạnh thực hiện các biện pháp chống thất thu, chống chuyển giá, buôn lậu, gian lận thương mại; tập trung xử lý thu hồi nợ đọng thuế và đôn đốc thu hồi các khoản phải thu theo kết luận của cơ quan có thẩm quyền; Trong điều hành quản lý chi NSNN cần đảm bảo tăng cường kiểm soát chặt chẽ các khoản chi, hạn chế ứng trước dự toán và chi chuyển nguồn; chủ động rà soát, sắp xếp các khoản chi theo thứ tự ưu tiên; đẩy mạnh việc mở rộng khoán xe ô tô công đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả… Để đẩy nhanh việc thực hiện vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN và TPCP thì Quốc hội cần phải giao hết số vốn còn lại chưa phân bổ cho các bộ, ngành, địa phương cũng như sớm thông qua danh mục và mức vốn TPCP để làm căn cứ triển khai thực hiện. Về phía các bộ, ngành, địa phương cần rà soát các vướng mắc trong cơ chế chính sách để tạo thuận lợi trong giải ngân các nguồn vốn đầu tư cũng như tăng cường chỉ đạo các đơn vị trực thuộc, các chủ đầu tư chủ động triển khai thực hiện kế hoạch và hoàn thiện các thủ tục để thanh toán vốn
Ba là, đẩy mạnh cơ cấu lại thu, chi ngân sách. Tăng cường quản lý, sử dụng hiệu quả vốn vay, chỉ vay trong khả năng trả nợ; kiểm soát chặt khoản vay của chính quyền địa phương, doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện đồng bộ các giải pháp quản lý nợ công, nhất là quản lý sử dụng có hiệu quả vốn vay, quản lý tốt nợ trung hạn và quỹ tích lũy trả nợ, quản lý và xử lý kịp thời rủi ro, tiếp tục cơ cấu lại các khoản vay; tăng cường quản lý các khoản vay mới, khoản vay có bảo lãnh của Chính phủ theo hướng siết chặt điều kiện cấp bảo lãnh, không mở rộng diện.
Bốn là, tái cơ cấu đầu tư công, tập trung nguồn lực để phát triển các tiền đề cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa[24]. Tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách tài chính để khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch vụ công và trong đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên như đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, nhất là các dự án áp dụng công nghệ cao, công nghệ chế biến sau thu hoạch, dự án đầu tư vào các vùng đặc biệt khó khăn. Nhanh chóng hoàn thiện hướng dẫn cơ chế tài chính đặc thù áp dụng cho các vùng kinh tế trọng điểm, (tập trung nguồn lực cho phát triển kinh tế trọng điểm) tạo động lực để các vùng kinh tế trọng điểm thực sự là đầu tàu tăng trưởng kinh tế của cả nước.
Hoàn thiện, triển khai thống nhất trên toàn quốc hệ thống thông tin về đầu tư sử dụng vốn nhà nước (bao gồm cơ sở dữ liệu về các dự án đầu tư công từ nguồn NSNN, hỗ trợ phát triển chính thức ODA, TPCP…); Hướng dẫn các bộ, ngành Trung ương và địa phương tăng cường công tác quản lý, lập báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công… Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong quản lý đầu tư công; Kiểm soát chặt chẽ mục tiêu, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư; bảo đảm công khai, minh bạch trong việc huy động, quản lý, sử dụng vốn vay.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế tự chủ đơn vị sự nghiệp công lập, xã hội hóa dịch vụ công, thu hút nguồn lực đầu tư tư nhân, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công. Thực hiện cơ chế quản lý như doanh nghiệp đối với đơn vị sự nghiệp công lập có đủ điều kiện; cổ phần hóa các đơn vị sự nghiệp công có đủ điều kiện, trừ các bệnh viện, trường học; giải thể đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động kém hiệu quả. Tính đúng, tính đủ chi phí hợp lý vào giá các dịch vụ công thiết yếu, thực hiện điều chỉnh giá các loại dịch vụ công theo cơ chế thị trường; chuyển từ cơ chế cấp phát sang đặt hàng, từ giao kinh phí theo đầu vào sang theo số lượng, chất lượng đầu ra, từ hỗ trợ cho các đơn vị cung cấp sang hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng thụ hưởng.
Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chính sách "xã hội hóa" đầu tư trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao để một mặt tăng thêm nguồn vốn đầu tư, mặt khác làm tăng tính cạnh tranh trong cung cấp sản phẩm dịch vụ thông qua việc khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển, cung cấp dịch vụ công.
Sáu là, tăng cường quản lý tài chính doanh nghiệp, đẩy mạnh tái cấu trúc, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước[25].
Rà soát, đánh giá toàn diện thực trạng và phân loại các doanh nghiệp nhà nước, dự án, công trình đầu tư và vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp để có giải pháp cơ cấu lại, xử lý phù hợp. Kiên quyết xử lý dứt điểm các doanh nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư thua lỗ, kém hiệu quả. Đối với doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối hoặc không cần nắm giữ cổ phần, vốn góp thì thực hiện cổ phấn hóa, bán, khoán, cho thuế, giải thể, phá sản. Đẩy mạnh thoái vốn đầu tư ngoài ngành, lĩnh vực kinh doanh chính, kiên quyết khắc phục tình trạng đều tư phân tán, dàn trải. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở nhiệm vụ được giao, ngành, nghề kinh doanh chính, khai thác tối đa tiềm năng, thế mạnh; triệt để tiết kiệm chi phí; nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ, uy tín và thương hiệu trên thị trường. Tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước được quản lý tập trung và chỉ sử dụng cho các mục đích chi đầu tư phát triển; không sử dụng cho chi thường xuyên của NSNN.
Tài liệu tham khảo:
1.Báo cáo 212/BC-CP ngày 19/5/2017 đánh giá bổ dung kết quả thực hiện NSNN năm 2016, tình hình triển khai thực hiện dự toán NSNN năm 2017.
2.TS. Vũ Nhữ Thăng. 2017. Chính sách tài khóa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2017. Tạp chí quản lý ngân quỹ quốc gia số 175 (1/2017).
3.TS. Dương Xuân Thao. 2017. Tái cơ cấu đầu tư công và một số kiến nghị.
4.TS. Nguyễn Viết Lơi. 2017. Phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và giải pháp đến năm 2020.
5.TS. Nguyễn Đức Trung. 2016. Phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tạo môi trường phát triển cho doanh nghiệp.
6.Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 1/1/2017 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2017.
7.Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 6/6/2017 về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
8.Nghị quyết 27/NQ-CP ngày 21/2/2017 ban hành chương trình hành động của chính phủ thực hiện nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 1/11/2016 về một số chủ trương chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế và nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 8/11/2016 của Quốc hội về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.
[1] Mục tiêu theo Nghị quyết Đại hội XI là: "… Phát triển kinh tế nhanh, bền vững, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Tuy nhiên, tại Kết luận 02-KL/TW ngày 16/3/2011 của Bộ Chính trị đã thay đổi mục tiêu: "Tập trung ưu tiên hàng đầu cho việc kiềm chế lạm phát; ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội; coi đây vừa là nhiệm vụ cấp bách ngắn hạn của năm 2011, vừa là nhiệm vụ quan trọng của một vài năm tiếp theo". Tiếp đó, Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI cũng đã khẳng định các giải pháp chính sách tại Kết luận 02-KL/TW là đúng đắn.
[2] Thuế TNDN: (i) Thuế suất thuế TNDN phổ thông giảm từ 25% xuống 22% từ ngày 01/01/2014 và 20% từ 01/01/2016, áp dụng mức thuế suất 20% từ ngày 01/7/2013 đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN); (ii) bổ sung ưu đãi thuế đối với đầu tư mở rộng thuộc lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn ưu đãi; Thuế TNCN: (i) đã nâng mức khởi điểm chịu thuế cho bản thân từ 4 triệu đồng/tháng lên 9 triệu đồng/tháng, nâng mức chiết trừ gia cảnh cho người phụ thuộc từ mức 1,6 triệu đồng/ tháng lên 3,6 triệu đồng/tháng. Thực hiện miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, miễn thu thuỷ lợi phí,…
[3] Chỉ thị 31/CT-TTg ngày 2/11/2016 về tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản công.
[4] Tính đến hết 2015, số giờ nộp thuế giảm còn 117 giờ (vượt so với mức mục tiêu 121,5 giờ đã được đề ra trong Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP); thực hiện chuẩn hóa và ban hành quyết định sửa đổi, bổ sung 46/70 quy trình, quy chế (bao gồm cả quy trình, quy chế nội bộ); cắt giảm 63 thủ tục hành chính và đơn giản hóa 262 thủ tục hành chính về thuế nội địa; ban hành mới 23 thủ tục, thay thế 128 thủ tục, bãi bõ 84 thủ tục. Năm 2016 tiếp tục đánh dấu cho những nỗ lực của Chính phủ trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển doanh nghiệp và nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia. Các nhóm giải pháp cụ thể tại Nghị quyết số 19/2016/NQ-CP ngày 28/4/2016 và Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ đã nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, giảm thời gian và chi phí tuân thủ cho người dân và doanh nghiệp, tăng cường tính công khai và minh bạch. Tính đến 22/11/2016, số thủ tục hành chính giảm từ 385 xuống còn 300 thủ tục hành chính, giảm 85 thủ tục hành chính so với thời điểm 31/12/2015.
[5] Đến nay, hệ thống khai thuế qua mạng đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố với 99,82% tổng số doanh nghiệp tham gia sử dụng dịch vụ khai thuế qua mạng; cơ chế một cửa quốc gia đã kết nối chính thức 11 Bộ, ngành với 39 thủ tục hành chính được thực hiện..
[6] Thông tư số 52/2017/TT-BTC ngqyr 19/5/2017 quy định về mẫu, chế độ in, phát hành, quản lý và sử dụng tờ khai hải quan dung cho người xuất cảnh, nhập cảnh. Thông tư 37/2017/TT-BTC ngày 27/4/2017 rút ngắn thời gian doanh nghiệp được sử dụng hóa đơn tự in từ 5 ngày xuống 2 ngày; Quyết định số 07/2017/QĐ-TTg ngày 27/3/2017 quy định về thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ theo hình thực điện tử tự động không dừng;
[7] Đã hoàn thành việc điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo 2 bước (bao gồm chi phí trực tiếp, phụ cấp đặc thù và tiền lương) ở 63 địa phương; ban hành quy định về giá dịch vụ khám chữa bệnh không thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ Bảo hiểm y tế; hầu hết các bộ đã ban hành giá đối với dịch vụ thuộc thẩm quyền quản lý…
[8] Quyết định 544/QĐ-TTg ngày 20/4/2017 phê duyệt chương trình quản lý nợ trung hạn giai đoạn 2016-2018; Quyết định 583/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 phê duyệt kế hoạch vay, trả nợ của chính phủ và các hạn mức vay nợ năm 2017; Quyết định số 578 ngày 28/4/2017 về việc giao kế hoạch đầu tư vốn trái phiếu chính phủ giai đoạn 2017-2020 và năm 2017.
[9] Nghị định số 52/2017/NĐ-CP ngày 28/4/2017 về cho vay lại nguồn vốn nước ngoài của Chính phủ đối với UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
[10] Cùng kỳ năm 2016, thu NSNN đạt 39,1% dự toán, tăng 4,5%; năm 2015 đạt 41,8%, tăng 7,9%.
[11] Theo báo cáo Tổng cục Thuế đánh giá tình hình thu NSNN 5 tháng đầu năm 2017, tăng thuế suất thuế TTĐB đối với sản phẩm rươu, bia làm tăng thu NSNN trong 5 tháng đầu khoảng 900 tỷ đồng so với cùng kỳ. Thực hiện tăng thuế suất thuế tài nguyên đối với một số khoáng sản làm tăng số thuế tài nguyên 5 tháng khoảng 600 tỷ đồng so với cùng kỳ.
[12] Cao hơn so với cùng kỳ năm 2016, thu dầu thô đạt 29,2% dự toán do giá dầu thô giảm
[13] Dưới tác động của tăng giá dầu thô, thu dầu thô 4 tháng đạt 15.415 tỷ đồng cao hơn so với yêu cầu dự toán khoảng 2.648 tỷ đồng (33,3%)
[14] Cùng kỳ năm 2016 thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 34,1% dự toán, đạt thấp do giá dầu thô giảm và sản phẩm hóa dầu xuất nhập khẩu giảm mạnh.
[15] Nhập khẩu 5 tháng đầu năm 2017 tăng 23,9% so với cùng kỳ năm trước, mức cao nhất trong 3 năm trở lại đây. Kim ngạch nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng tăng 33,8%, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 27,5%, chất dẻo nguyên liệu tăng 13,5%, điện thoại các loại và linh kiện tăng 23,4%...
[16] Cùng kỳ năm 2016, chi NSNN đạt 29,1% dự toán; năm 2015 đạt 31,6%
[17] Tỷ trọng TPCP kỳ hạn từ 10 năm (10 – 30 năm) đạt 50,6% tổng huy động từ TPCP (năm 2016, tỷ trọng này là 24%).
[18] Thông tư 10/2017/TT-BTC ngày 06/02/2017 sửa đổi Thông tư 234/2012/TT-BTC hướng dẫn quản lý giao dịch trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương
[19]Theo yêu cầu tiến độ dự toán, lũy kế 5 tháng đầu năm, thu nội địa phải đạt 41,6% dự toán.
[20] Lượng ô tô nhập khẩu tăng cao (lượng ô tô nhập khẩu 4 tháng tăng 19,73% so cùng kỳ) dẫn đến sản lượng sản xuất, tiêu thụ của các liên doanh sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước tăng chậm lại (sản xuất ô tô trong nước chỉ tăng 8,6%, cùng kỳ năm 2016 tăng 23,9%), một số liên doanh sản xuất lắp ráp ô tô trong nước sản lượng sản xuất, tiêu thụ và nộp NS đạt tiến độ thấp (Honda và Toyota mới đạt được 31% DT, bằng 98% cùng kỳ; Ford đạt 33,9% DT, bằng 99,5% cùng kỳ; Mercedes đạt 37% DT, bằng 98% cùng kỳ...)
[21] 3.600 tỷ đồng gồm: 600 tỷ đồng vốn trong nước, 3.000 tỷ đồng vốn ngoài nước
[22] Tiến độ giải ngân theo dự toán tính đến hết 30/4/2017 phải khoảng 41,1%. Kế hoạch vốn đầu tư thuộc kế hoạch năm 2017 Quốc hội giao là 357.150 tỷ đồng.
[23] 3.600 tỷ đồng gồm: 600 tỷ đồng vốn trong nước, 3.000 tỷ đồng vốn ngoài nước.
[24] Nghị quyết 27/NQ-CP ngày 21/2/2017 ban hành chương trình hành động của chính phủ thực hiện nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 1/11/2016 về một số chủ trương chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế và nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 8/11/2016 của Quốc hội về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.
[25] Nghị quyết số 12-NQ/TW về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu hỏa doanh nghiệp nhà nước