Tại hội nghị toàn quốc về giải pháp tổng thể thúc đẩy xuất khẩu mới đây, thông điệp của Bộ Công Thương dường như cho thấy Việt Nam muốn chú trọng hơn vào việc xuất khẩu nông sản và thủy sản. Sự dịch chuyển này nhằm giảm bớt lệ thuộc vào nhóm hàng công nghiệp mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đang giữ vị trí thống lĩnh.
Xuất khẩu hàng công nghiệp: có tiếng mà không có miếng

Sau 30 năm kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội thông qua (cuối năm 1987), phải ghi nhận rằng doanh nghiệp FDI đã có những đóng góp khá quan trọng vào sự phát triển của kinh tế đất nước, nhất là lĩnh vực xuất khẩu. Tuy vậy, mục tiêu phát triển công nghiệp trong nước, các ngành công nghiệp phụ trợ có thể nói là thất bại khi đóng góp vào chuỗi giá trị quá thấp, suốt một thời gian dài vẫn chỉ là gia công lắp ráp.
Chúng ta đều biết rằng đích nhắm của các doanh nghiệp FDI là nhân công giá rẻ, điều kiện tuân thủ về môi trường, lao động còn nhiều lỏng lẻo và hơn thế, Việt Nam còn là một thị trường tiêu thụ lớn. Khi lựa chọn Việt Nam là điểm đến đầu tư, các doanh nghiệp này chắc hẳn cũng muốn sử dụng các sản phẩm dịch vụ hỗ trợ tại chỗ, nhưng nếu doanh nghiệp nội địa không tận dụng được thì họ phải đành tìm nguồn cung cấp từ nơi khác.
Đến hết quí 1-2018, kim ngạch xuất khẩu nước ta ước tính đạt 54,31 tỉ đô la Mỹ, trong đó khu vực kinh tế trong nước chỉ chiếm 27,56%. Trong các mặt hàng chủ lực có giá trị xuất khẩu cao, chủ yếu vẫn là các mặt hàng do các doanh nghiệp FDI sản xuất như điện thoại và linh kiện điện tử và máy tính, máy móc thiết bị, dệt may và giày dép... Các mặt hàng này chiếm khoảng 80% tổng giá trị xuất khẩu. Nếu chỉ tính riêng nhóm hàng công nghiệp thì doanh nghiệp FDI chiếm hầu như tuyệt đối, chẳng hạn chiếm 99,7% trong kim ngạch hàng điện thoại và linh kiện.
Nhóm hàng thủy sản, nông sản mặc dù chiếm tỷ trọng còn thấp nhưng thời gian gần đây có tốc độ tăng trưởng nhanh về giá trị kim ngạch. Trong xu hướng ngày càng có nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) được ký kết và có hiệu lực nhưng cũng kèm theo các yêu cầu về xuất xứ hàng hóa khắt khe hơn, thì việc tập trung vào các nhóm hàng có thế mạnh và tỷ lệ trong nước cao là một hướng đi cần được quan tâm nhiều hơn.
Cần cụ thể hóa ba nhóm giải pháp lớn
Trong đề xuất của Bộ Công Thương về ba nhóm giải pháp lớn, có thể thấy đều hướng đến nhóm hàng nông sản và thủy sản thông qua việc phát triển đồng thời cung, cầu và môi trường hỗ trợ. Muốn vậy, cần cụ thể hóa bằng các hành động như sau.
Thứ nhất, khuyến khích và kết hợp chế tài mạnh trong việc đảm bảo chất lượng nguồn hàng cung cấp. Phải thay đổi được suy nghĩ của các hộ sản xuất và doanh nghiệp, tránh tư duy ăn xổi, phải kiếm lời bằng uy tín chất lượng chứ không phải bằng các mánh lới, gian lận. Điều này cần học người Nhật và người Đức.
Thứ hai, cần đầu tư công nghệ vào sản xuất để tăng năng suất, nhất là trong lĩnh vực nuôi trồng. Đầu tư ban đầu cần được hỗ trợ một phần từ Chính phủ. Trong trường hợp cần sản xuất quy mô lớn thì cũng cần có một mô hình phù hợp để có thể tập trung được ruộng đất.
Thứ ba, cần nắm bắt được yêu cầu của thị trường, đặc biệt là các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm. Có những phân khúc thị trường đòi hỏi chất lượng sản phẩm rất khắt khe nhưng bù lại giá trị gia tăng cao. Có những sản phẩm, được coi là sạch không chỉ trong quá trình nuôi trồng, mà cả từ nguồn nước, nguồn đất, nguồn gốc của dinh dưỡng đầu vào. Đây là một thách thức lớn cho Việt Nam vì sau một thời gian chú trọng năng suất, việc lạm dụng thuốc trừ sâu đã khiến cho nguồn nước, nguồn đất "sạch" không còn nhiều, mà quá trình cải tạo đất mất không dưới chục năm.
Cuối cùng, các cơ quan nhà nước có liên quan cần mẫn cán hỗ trợ thông tin cho các hộ gia đình và doanh nghiệp sản xuất trong lĩnh vực nông sản, thủy sản, nhất là các thông tin về dự báo thị trường, đảm bảo thị trường không bị lũng đoạn, biến động giá lớn. Việc sản xuất cần có quy hoạch về sản lượng dựa trên dự báo, không để xảy ra trường hợp trồng, nuôi theo phong trào để rồi được mùa mất giá./.
Theo Thesaigontimes