Kinh tế tư nhân (KTTN) được dùng để chỉ các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và doanh nghiệp tư nhân. Quan điểm về phát triển KTTN ở nước ta đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trong tác phẩm "Thường thức chính trị" (9-1953). Người đã đề cập đến sự tồn tại của các loại hình kinh tế khác nhau, trong đó có KTTN, "những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ, đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà"1.
Từ năm 1954 đến trước năm 1986, KTTN vẫn tồn tại nhưng không có một quá trình phát triển xuyên suốt. Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị, họp từ ngày 5 đến ngày 7-9-1954, ghi rõ: "Công thương nghiệp tư nhân nhất luật được bảo hộ", "làm cho các xí nghiệp công và tư hiện có được tiếp tục kinh doanh"2. HNTƯ của Đảng tháng 9-1979, chủ trương cho sản xuất bung ra và sử dụng đúng mức các thành phần kinh tế. Đại hội lần thứ V (1982) của Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương trên: "Đối với các cơ sở kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân, Nhà nước dùng các chính sách kinh tế và biện pháp hành chính kết hợp với sự kiểm tra của quần chúng để hướng dẫn, điều khiển hoạt động của các cơ sở ấy theo quỹ đạo kế hoạch nhà nước"3... khuyến khích kinh tế gia đình phát triển đúng hướng.
Bắt đầu từ Đại hội VI (1986) của Đảng, nền kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận chính thức trong văn kiện Đảng: "Cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế... Xóa bỏ những thành kiến thiên lệch..."4, "Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa"5. Các thành phần kinh tế phi XHCN được thừa nhận sự tồn tại và hoạt động dưới sự chỉ đạo, dẫn dắt của thành phần kinh tế XHCN. Tuy nhiên lúc này, KTTN nói riêng, các thành phần kinh tế phi XHCN nói chung vẫn được coi là đối tượng phải "cải tạo", bằng những hình thức và bước đi thích hợp, tránh chủ quan nóng vội: "cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác"6. Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 15-7-1988, của Bộ Chính trị và NQTƯ 6 khóa VI tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới, nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, khẳng định KTTN được phát triển trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh. Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 5-4-1988, của Bộ Chính trị, xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó đổi mới cơ bản cách thức quản lý hợp tác xã nông nghiệp, tạo động lực cho KTTN trong nông nghiệp hồi phục và phát triển năng động, bước đầu chuyển sang sản xuất hàng hóa. Đó là bước khởi đầu quan trọng đối với KTTN nước ta, mở đường cho những bước đột phá mạnh hơn sau này.
Đại hội VII (1991) đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về việc khuyến khích và tạo điều kiện cho KTTN phát triển: "Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước"7 và "Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp"8. "Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm"9. Từ chỗ coi kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế "tàn dư" của chế độ xã hội cũ, có thể sử dụng nhưng cần "cải tạo" bằng những bước đi thích hợp, Đại hội VII đã thực sự coi KTTN là một thành phần kinh tế độc lập, có tiềm năng phát triển và đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước nói chung. HNTƯ 2 khóa VII đã nêu chủ trương: "Bổ sung và sửa đổi các thể chế nhằm bảo đảm cho kinh tế tập thể, cá thể và tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm; được tự lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên doanh với nước ngoài theo những điều kiện do luật định"10.
Đại hội VIII (1996) của Đảng tiếp tục khẳng định: thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần, khuyến khích mọi doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước khai thác các tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển, yên tâm làm ăn lâu dài, hợp pháp, có lợi cho quốc kế dân sinh; đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh11. Đồng thời cần tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài.
Đại hội IX (2001) của Đảng khẳng định bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng về kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: "Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm"12. Từ chỗ cho rằng: tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy định13; đến Đại hội IX, quan điểm của Đảng đã có bước nhìn nhận mới: "Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh liên kết với nhau với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước"14. Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội IX, HNTƯ 5 khóa IX thông qua Nghị quyết "Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân". Đây là lần đầu tiên kể từ khi đổi mới, HNTƯ có một nghị quyết chuyên đề về KTTN. Nghị quyết tiếp tục khẳng định: KTTN là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển KTTN là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Trên cơ sở nhận định về thực trạng KTTN, nghị quyết thống nhất chủ trương và đề ra các giải pháp cụ thể nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý và tâm lý xã hội để các doanh nghiệp của tư nhân phát triển rộng rãi trong những ngành, nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm, không hạn chế về quy mô, nhất là trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước.
Đại hội X (2006) của Đảng tiếp tục xác định KTTN có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. KTTN là bộ phận cấu thành không thể thiếu, có vị trí quan trọng đặc biệt và ý nghĩa chiến lược trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng thời, khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tiếp theo của công cuộc đổi mới đất nước. Lần đầu tiên, vấn đề đảng viên làm KTTN được Đảng chính thức nêu ra và có quy định cụ thể. HNTƯ 3 khóa X đã thảo luận và thông qua "Quy định đảng viên làm kinh tế tư nhân". Quy định này đã mở đường cho đảng viên được kinh doanh hợp pháp, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.
Đại hội XI (2011) của Đảng tiếp tục xác định phải hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh KTTN trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Quan niệm coi KTTN là "một trong những động lực của nền kinh tế" trong hai kỳ Đại hội X và XI phản ánh bước tiến mới trong tư duy của Đảng về vị trí, vai trò của KTTN trong nền kinh tế nước ta. Văn kiện Đại hội XII (2016) nhấn mạnh việc: "Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước"15. Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội XII, HNTƯ 4 khóa XII tiếp tục xác định rõ việc phát triển mạnh khu vực KTTN Việt Nam cả về số lượng, chất lượng, thực sự là một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Ngày 3-6-2017, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã đề ra 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển KTTN. Phấn đấu đến năm 2020 có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp; đến năm 2025 có hơn 1,5 triệu doanh nghiệp và đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp. Tốc độ tăng trưởng của KTTN cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Phấn đấu tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực KTTN vào GDP để đến năm 2020 đạt khoảng 50%, năm 2025 khoảng 55%, đến năm 2030 khoảng 60-65%.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhất là từ khi thực hiện NQTƯ 5 khóa IX "Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân", KTTN ở nước ta liên tục phát triển, đóng góp ngày càng lớn hơn vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Giai đoạn 2003-2015, KTTN đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 10,2%/năm; chiếm tỷ trọng 39-40% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng từ 55.236 doanh nghiệp (2002) lên 495.826 doanh nghiệp (2015) và 567.678 doanh nghiệp (2016); số hộ kinh doanh phi nông nghiệp tăng từ 2,26 triệu hộ (2002) lên hơn 4,75 triệu hộ (2015)16.
Tuy nhiên, KTTN vẫn chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng của KTTN có xu hướng giảm trong những năm gần đây: từ 11,93%/năm giai đoạn 2003-2010 xuống 7,54%/năm giai đoạn 2011-201517. KTTN ở nước ta có quy mô nhỏ, chủ yếu vẫn là kinh tế hộ kinh doanh: Số lượng các hộ kinh doanh chiếm khoảng 95% tổng số chủ thể KTTN. Trong KTTN, kinh tế hộ kinh doanh chiếm tới gần 80% GDP năm 2015 (tương đương 31,33% GDP của cả nước); doanh nghiệp tư nhân chỉ chiếm khoảng 20% (tương đương 7,88% GDP của cả nước). Trên 90% doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng. Hơn 80% doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Chỉ có hơn 10% doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và khoảng 1% doanh nghiệp đầu tư, hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp18. Xét theo quy mô lao động, tỷ lệ các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ có xu hướng tăng lên trong giai đoạn 2002-2014, từ 90% lên 97%. Riêng doanh nghiệp siêu nhỏ (nếu xét theo tiêu chí là dưới 10 lao động) đã chiếm khoảng 66%19. Nhiều doanh nghiệp có đặc điểm không khác nhiều so với hộ kinh doanh cá thể về quy mô lao động, doanh thu, cách tổ chức quản lý. Theo "Báo cáo Thường niên Doanh nghiệp Việt Nam năm 2015" do VCCI công bố thì tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân bị thua lỗ trong giai đoạn 2007-2014 từ 21,7% đến 45,4%. Tỷ lệ doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động cao, bình quân giai đoạn 2007-2015 là 45% tổng số doanh nghiệp còn hoạt động trong nền kinh tế. Số doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh đã tăng liên tục trong 3 năm gần đây. Năm 2015 cả nước có 71.391 doanh nghiệp tạm ngừng, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm 2014. Tốc độ tăng trưởng doanh thu bình quân có chiều hướng giảm mạnh: 34%/năm (2007-2011), 10%/năm (2012-2015). Năng suất lao động thấp hơn so với mặt bằng chung của nền kinh tế; Công nghệ lạc hậu và phụ thuộc vào nhập khẩu; số lao động có kỹ thuật chuyên môn chỉ khoảng 7%; đầu tư cho đổi mới công nghệ chiếm 3% doanh thu; có 0,005% số doanh nghiệp có sáng kiến khoa học; hoạt động nghiên cứu và phát triển mới dừng ở cấp độ công ty (47% doanh nghiệp thực hiện nghiên cứu và phát triển) và thị trường nội địa (39%)20. Năng lực quản trị còn rất yếu, hoạt động thiếu minh bạch.
Một số nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là nhận thức về vị trí, vai trò của khu vực KTTN chưa nhất quán, KTTN chưa thực sự là một thành phần kinh tế quan trọng. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước còn nhiều hạn chế. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KTTN. Cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân chưa đi vào thực tế. Doanh nghiệp tư nhân ít được tiếp cận với những chính sách hỗ trợ và các chương trình ưu đãi của Chính phủ; ít được hỗ trợ về thông tin thị trường trong và ngoài nước. Môi trường kinh doanh chưa thuận lợi cho KTTN phát triển. Tiến trình cải cách thể chế kinh tế diễn ra chậm chạp, môi trường cạnh tranh chưa bình đẳng. Các thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, cơ chế xin-cho còn diễn ra ở nhiều nơi. Cơ chế tiếp cận vốn vay và các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân chưa được quan tâm. Chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, kỹ năng của người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra của các doanh nghiệp.
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên, trong thời gian tới cần thực hiện tốt 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đã nêu trong Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Ban Chấp hành Trung ương về phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, và quan tâm thực hiện một số giải pháp cụ thể sau:
Tạo sự đồng thuận xã hội trong quan điểm nhìn nhận và đánh giá vai trò của KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, phát huy tính năng động, hiệu quả cạnh tranh của thành phần KTTN. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược, xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính, xây dựng chiến lược công nghiệp mới, đặt trọng tâm vào khu vực KTTN, gắn với đổi mới và sáng tạo và cải cách hành chính công, thực hiện quản lý, điều hành nền kinh tế một cách minh bạch, hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả các loại thị trường. Bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu, quyền tài sản, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh, xóa bỏ rào cản về khả năng tiếp cận thị trường, khả năng tiếp cận nguồn lực, khả năng tiếp cận thông tin, để mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường.
Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách riêng phù hợp với từng nhóm đối tượng doanh nghiệp: đối với nhóm doanh nghiệp lớn cần định hướng theo hướng quốc tế hóa, gắn với đổi mới sáng tạo, gắn với xuất khẩu và xu hướng của cuộc cách mạng 4.0. Đối với nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần có cơ chế chính sách để họ liên kết với nhau và gắn kết với doanh nghiệp lớn và nâng cao năng lực đổi mới quản trị. Đối với nhóm doanh nghiệp khởi nghiệp, nhóm doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, cần tạo ra hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi nhất để sử dụng có hiệu quả các quỹ đầu tư rủi ro hỗ trợ các doanh nghiệp. Đối với nhóm doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, phải có cơ chế chính sách khuyến khích ứng dụng công nghệ cao và hoạt động trên quy mô lớn. Đối với nhóm các hộ kinh doanh, không nên có chính sách hành chính để chuyển đổi các hộ kinh doanh này thành doanh nghiệp, mà điều quan trọng phải giảm các chi phí không chính thức, chi phí tuân thủ… để các hộ kinh doanh này nâng cao năng lực chuyển đổi sang doanh nghiệp.
Khắc phục những hạn chế cơ bản trên một số lĩnh vực, tiếp tục thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, trong đó trước mắt cần tập trung vào một số nội dung, như: cải thiện việc tiếp cận các yếu tố đầu vào cho sản xuất kinh doanh (đất đai, vốn, lao động, công nghệ và điện năng); giảm thời gian, chi phí tuân thủ các thủ tục về thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, xây dựng; rút ngắn thời gian đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản, bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của doanh nghiệp. Chính quyền các tỉnh, thành phố cần chủ động thực hiện các chương trình đối thoại định kỳ với doanh nghiệp, đồng thời nghiên cứu áp dụng các mô hình thực tiễn tốt nhằm cải thiện môi trường kinh doanh. Hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn vốn. Đẩy mạnh hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản trị, tăng cường năng lực nghiên cứu và phát triển, đổi mới công nghệ. Tăng cường xúc tiến thương mại và hỗ trợ tiếp cận thông tin thị trường. Có cơ chế để đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hóa dịch vụ và đầu tư vào các nước đã ký các hiệp định thương mại và đầu tư.
1. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 8, tr. 267
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, ...., T. 15, tr. 295
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, ...., T. 43, tr. 234
4, 5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2006, T. 47, tr. 395, 377-378, 389
7, 8, 9, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2007, T. 51, tr. 97, 155, 160, 542-543
11, 13. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2015, T. 55, tr. 320-321, 379
12, 14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr. 191, 31
15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H, 2016, tr. 107-108
16. Số liệu Tổng điều tra các cơ sở kinh doanh cá thể phi nông nghiệp năm 2015
17. Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê
18. Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê
19. Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê
20. Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Khoa học và Công nghệ
Thạc sỹ, CVCC Nguyễn Văn Quý, Phó Vụ trưởng, Vụ Nông nghiệp - Nông thôn, Ban Kinh tế Trung ương