ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ VÀ MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM
THE 4TH INDUSTRIAL REVOLUTION: IMPACT ASSESSMENT AND SOME GUIDELINES FOR VIETNAM BANKING SECTOR
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
State Bank of Vietnam
Tóm tắt:
Những thách thức đối với ngành Ngân hàng Nhà nước (1)Thách thức đối với hoạt động điều hành chính sách của NHNN:(i)Thách thức trong việc điều hành CSTT trong bối cảnh tiền điện tử ngày càng được sử dụng và chấp nhận rộng rãi. (ii)Thách thức trong việc kiểm soát soát dòng tiền, rủi ro trong thanh toán và an toàn hoạt động toàn hệ thống trong xu hướng các hoạt động tài chính phi ngân hàng/ngân hàng ngầm[1] ngày càng phát triển(iii) Thách thức từ việc hạ tầng thanh toán phát triển chưa đồng đều và chưa thực sự hoàn thiện. (iv)Thách thức trong việc chuyển đổi hoạt động thanh tra giám sát từ chủ yếu dựa trên thanh tra tại chỗ sang thanh tra giám sát trên cơ sở rủi ro dựa vào việc giám sát từ xa trên nền tảng công nghệ phân tích dữ liệu lớn (Big Data); kết nối, giám sát trực tuyến (online) đối với một số chỉ tiêu hoạt động chính của các TCTD để xử lý kịp thời các rủi ro, mất an toàn.(v)Thách thức năng lực thể chế, đó là việc xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phục vụ hoạt động ngân hàng số, hoạt động thanh toán phi truyền thống:(2)Đối với hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD):(i)Thách thức cho các ngân hàng trong việc thay đổi mô hình kinh doanh, mô hình quản trị.(ii) Thách thức trong việc phát triển các kênh phân phối mới, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, mang tính tích hợp cao.(iii)Thách thức trong xu hướnggiảm dần vai trò của các chi nhánh[2]. (iv) Thách thức do hạn chế về nguồn lực tài chính trong đầu tư công nghệ, thiếu trung tâm dữ liêu dự phòng. (v)Thách thức chung cho toàn hệ thống ngân hàng về bảo mật thông tin và an ninh mạng tài chính quốc gia, về các loại tội phạm công nghệ cao, cũng như thách thức về trình độ, năng lực, số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộCNTT(gọi chung là rủi ro IT ngày một lớn hơn với hệ thống ngân hàng).
Abstract:
The challenges for the National Bank of Vietnam include (1) The challenge for policy management activities: (i) The challenge in running monetary policy in the context of increasingly used and accepted widelyelectronic money. (Ii) The challenge in controlling cash flow, risks payment and safe system activities in the trend of growing activities of non-bank financial / underground banking system. (iii) Uneven and incomplete development ofthe payment infrastructure. (Iv) The challenge arising from swithcing inspection supervision mode frommainly based on on-site inspection to supervision on the basis of risk-based remote monitoring and technology-based on big Data platform; online connections and monitoring for some key indicators of criteria activity to promptly handle risks. (v) Institutional capacity challenge: building and completingthe legal framework for the operation of the banking sector, operating non-traditional payments: (2) Challenges for the operation of the system of credit institutions:(i) changing the business and management model. (ii) the development of new distribution channels, modern banking services and products with higherhigh integration requirements. (iii) the trend of gradually reducing the role of branches. (iv) limited financial resources invested in technology, lack of backup data center. (v) information security and network security of national finances, in all kinds of high-tech crime, as well as challenge the qualifications, competence, quantity and quality of IT staff (called IT risks with the banking system).
I. TỔNG QUAN VỀ CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ (CMCN 4.0)
1. Khái niệm và nguồn gốc về CMCN 4.0
Khái niệm Industry 4.0 hay là Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (The Fourth Industrial Revolution - FIR) lần đầu tiên được đề cập trong bản Kế hoạch hành động chiến lược công nghệ cao được chính phủ Đức thông qua vào năm 2012.Theo GS. Klaus Schwab, chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Industry 4.0 (tiếng Đức là Industrie 4.0) là một thuật ngữ bao gồm một loạt các công nghệ tự động hóa hiện đại, xu hướng trao đổi dữ liệu, công nghiệp chế tạo và sản xuất thông minh.
CMCN 4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các "nhà máy thông minh"với cấu trúc đa dạng và linh hoạt, tại đó các hệ thống vật lý không gian ảo sẽ giám sát các quá trình, tạo ra một bản sao ảo của thế giới vật lý. Với Internet của vạn vật(IOT- Internet of Things)[3], các hệ thống vật lý không gian ảo này tương tác với nhau và với con người theo thời gian thực; sau đó, thông qua Internet của các dịch vụ (IOS – Internet of Services), người dùng sẽ được tham gia vào chuỗi giá trị thông qua việc sử dụng các dịch vụ này - đồng nghĩa với sự phức tạp của mạng lưới sản xuất và nhà cung cấp sẽ tăng lên rất nhiều. Thông qua việc kết nối này, các doanh nghiệp sẽ tạo ra những mạng lưới thông minh trong toàn bộ chuỗi giá trị để có thể kiểm soát lẫn nhau một cách tự động, qua đó giúpxóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học. Điều này cho phép tùy biến sản phẩm để phù hợp với khách hàng và tạo ra các mô hình hoạt động mới.
CMCN 4.0 được hình thành trên nền tảng của cuộc cách mạng thứ 3 (còn gọi là cách mạng kỹ thuật số - sử dụng các thiết bị điện tử, công nghệ thông tin (CNTT) để tự động hóa hơn nữa quá trình sản xuất)[4]. CMCN 4.0 có đặc điểm là thông minh hóa sản xuất, mang tính tích hợp cao, linh hoạt và thân thiện với môi trường; cuộc cách mạng này không chỉ giới hạn ở tự động hóa, hệ thống thông minh và được kết nối, mà còn bao trùm phạm vi rộng lớn bao gồm các làn sóng phát triển của những đột phá trong các lĩnh vực khác nhau: từ mã hóa chuỗi gen cho tới công nghệ nano, in 3D, từ các năng lượng tái tạo tới tính toán lượng tử. Nói cách khác, đây là sự dung hợp của các công nghệ này và sự tương tác của chúng trên các lĩnh vực vật lý, số và sinh học - đây là yếu tố căn bản khiến CMCN 4.0 khác biệt với các cuộc cách mạng trước đó. Một ví dụ cho CMCN 4.0 là những cỗ máy có thể dự đoán những thất bại và quy trình bảo trì kích hoạt độc lập hoặc việc tự tổ chức công tác hậu cần để phản ứng với những thay đổi bất ngờ trong sản xuất.
Trong cuộc cách mạng này, các công nghệ mới nổi và sự đổi mới trên diện rộng được khuếch tán nhanh hơn và rộng rãi hơn so với những lần trước - có thể coi đây là biến động lớn thứ tư với tác động mạnh mẽ nhất trong sản xuất chế tạo hiện đại, sau cách mạng điện những năm 1970, cách mạng gia công những năm 1990, và cách mạng tự động hóa diễn ra trong những năm 2000. Trên thực tế, CMCN lần thứ hai chưa đến được với 17% dân số của thế giới - ước tính khoảng gần 1,3 tỷ người chưa tiếp cận được với điện. CMCN lần thứ ba vẫn chưa đến được với hơn nửa dân số thế giới, 4 tỷ người, phần lớn đang sống trong các nước đang phát triển vẫn thiếu tiếp cận Internet.
2. Những nguyên lý chính của CMCN 4.0
Có bốn nguyên lý được thiết lập cho CMCN 4.0, hỗ trợ cho việc xác định và thực hiện các kịch bản của CMCN 4.0, bao gồm:
Thứ nhất, khả năng kết nối. Khả năng máy móc, thiết bị, vật cảm biến và con người có thể kết nối và giao tiếp với nhau thông qua Internet (IOT hoặc IOP).
Thứ hai, minh bạch thông tin. Khả năng các hệ thống thông tin có thể tạo ra một bản sao ảo của thế giới vật lý thông qua việc làm phong phú thêm các mô hình kỹ thuật số với các dữ liệu cảm biến. Điều này đòi hỏi sự tập hợp của nguồn dữ liệu cảm biến đối với nguồn thông tin có giá trị cao hơn.
Thứ ba, hỗ trợ kỹ thuật. Nguyên lý này bao hàm hai vấn đề: Một là, khả năng các hệ thống hỗ trợ có thể hỗ trợ cho con người thông qua việc tập hợp và hiển thị thông tin để đưa ra những quyết định và giải quyết các vấn đề khẩn cấp trên một bản thông báo ngắn. Hai là, khả năng các hệ thống điều khiển - có thể hỗ trợ về mặt vật lý cho con người bằng cách giải quyết một loạt các trạng thái như khó chịu, quá mệt mỏi, hoặc không an toàn.
Thứ tư, việc quyết định được phân cấp sâu hơn. Khả năng các hệ thống điều khiển - vật lý đưa ra các quyết định của riêng mình và tự thực hiện các nhiệm vụ nếu có thể. Chỉ trong trường hợp ngoại lệ, khi bị nhiễu hoặc các mục tiêu mâu thuẫn lẫn nhau thì các nhiệm vụ được thực hiện ở một cấp độ cao hơn.
3. Những sản phẩm, lĩnh vực chủ yếu của CMCN 4.0
Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố tháng 9/2015, 21 sản phẩm công nghệ sẽ định hình trong tương lai dựa trên công nghệ kỹ thuật số và thế giới siêu kết nối[5], bao gồm:quần áo kết nối với Internet; những sản phẩm cảm biến kết nối với Internet; lưu trữ dữ liệu không giới hạn và miễn phí trên người (có kèm quảng cáo); dược sĩ robot; mắt kính kết nối với Internet; số đông dân số hiện diện trên Internet; ôtô được sản xuất hoàn toàn bằng công nghệ in 3D; điều tra dân số bằng các nguồn dữ liệu lớn; điện thoại di động cấy ghép vào người; sản phẩm tiêu dùng được sản xuất bằng công nghệ in 3D; điện thoại thông minh; xe không người lái; cấy ghép gan bằng công nghệ in 3D; kiểm toán được thực hiện bằng trí tuệ nhân tạo; thu thuế của chính phủ qua blockchain (khối chuỗi)[6]; 50% các thiết bị dân dụng ở nhà có thể truy cập Internet; những chuyến đi du lịch hay công tác được thực hiện qua các phương tiện chia sẻ; thành phố (khoảng 50 000 người) không có đèn giao thông; tổng sản phẩm nội địa toàn cầu được lưu trữ trên blockchain; máy trí tuệ nhân tạo. Đây là những sản phẩm được kì vọng sẽ xuất hiện trong 10 năm tới bắt nguồn từ những thay đổi sâu sắc của Cuộc cách CMCN 4.0.
Cho đến nay, Bitcoin là ứng dụng blockchain nổi tiếng nhất và dự kiến công nghệ này sẽ sớm có thêm nhiều ứng dụng khác. Tại thời điểm hiện tại, blockchain được dùng để ghi lại các giao dịch tài chính được thực hiện với các tiền tệ kỹ thuật số như Bitcoin. Trong tương lai, tiềm năng của công nghệ blockchain là khá lớn. Những loại giao dịch khác như giấy khai sinh, giấy chứng tử, chức danh, tước vị sở hữu, giấy đăng ký kết hôn, các bằng cấp giáo dục, bồi thường bảo hiểm, thủ tục y tế và lá phiếu bầu cử cũng sẽ sử dụng công nghệ này. Chính phủ Honduras đã sử dụng công nghệ này để xử lý quyền sử dụng đất; quốc gia Isle of Man cũng đang thử nghiệm việc sử dụng blockchain trong việc đăng ký công ty.
Ngoài ra, CMCN 4.0 còn tạo ra những sản phẩm vật liệu mới như vật liệu thông minh tự phục hồi hoặc tự làm sạch, các kim loại có khả năng khôi phục lại hình dạng ban đầu, gốm sứ và pha lê biến áp lực thành năng lượng và nhiều vật liệu khác nữa; các robot được sử dụng ở tất cả các lĩnh vực từ nông nghiệp cho đến chăm sóc người bệnh; hay những đổi mới trong lĩnh vực sinh học nói chung và di truyền nói riêng để giảm chi phí và dễ dàng hơn trong việc giải trình bộ gien và kích hoạt hoặc chỉnh sửa gien.
4. Tác động của CMCN 4.0
4.1. Tác động tới nền kinh tế toàn cầu
CMCN 4.0 thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế thế giới chuyển sang kinh tế tri thức bởi nguồn lực phát triển quan trọng nhất của cuộc cách mạng này là nhân lực có năng lực sáng tạo công nghệ. Quốc gia nào sở hữu nhiều tri thức, nhân lực chất lượng cao sẽ giành ưu thế cạnh tranh toàn cầu. CMCN 4.0 đang ở giai đoạn khởi phát, chưa thể đánh giá được hết các tác động, do đó, cần phải tiếp tục theo dõi chiều hướng và tác động của cuộc cách mạng này. Nhiều dự báo cho rằng CMCN 4.0 sẽ tác động sâu sắc đến kinh tế thế giới trên các phương diện sau:
(i) Trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia: Các nước đang phát triển có cơ hội rút ngắn khoảng cách phát triển nếu biết tiếp cận nhanh CMCN 4.0. Điều này cũng đồng nghĩa việc các nước này đối mặt với nguy cơ tụt hậu xa hơn nếu không tận dụng tốt những lợi thế và cơ hội từ cuộc CMCN này. Những quốc gia có sở hữu nhiều tri thức, nhân lực chất lượng cao, biết tận dụng tốt cơ hội sẽ có thể bứt phá trở thành những nước có nền kinh tế phát triển hàng đầu. Nếu CMCN 4.0 tiếp tục phát triển như dự báo thì lĩnh vực chế tạo và sản xuất trong tương lai sẽ quay trở lại các nước phát triển là nơi khởi phát của CMCN 4.0. Do đó, các nước đi sau sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi theo đuổi mô hình công nghiệp hóa dựa vào xuất khẩu và FDI.
(ii) Tăng trưởng kinh tế: CMCN 4.0 có tiềm năng nâng cao mức thu nhập toàn cầu và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân trên toàn thế giới. Những người hưởng lợi nhiều nhất từ cuộc cách mạng này cho đến nay là những người tiêu dùng tiếp cận được với thế giới kỹ thuật số. Công nghệ đã giúp tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, mang lại hiệu quả và sự hài lòng cao, qua đó giúp cải thiện chất lượng sản phẩm, giúp người tiêu dùng tiếp cận sản phẩm với giá trị và mức giá phù hợp. Những thay đổi lớn về nhu cầu, sự tham gia và những hành vi mới của người tiêu dùng buộc các công ty phải điều chỉnh phương thức thiết kế, tiếp thị và phân phối sản phẩm, dịch vụ để tăng tính cạnh tranh.Bên cạnh đó, đổi mới công nghệ cũng sẽ dẫn đến một sự thay đổi to lớn từ phía cung hàng hóa thông qua tiết giảm chi phí và tăng năng suất lao động[7]. Chi phí giao thông vận tải và thông tin liên lạc sẽ giảm xuống, hậu cần và chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ trở nên hiệu quả hơn, các chi phí thương mại được giảm bớt. Tất cả những yếu tố kể trên sẽ giúp mở rộng thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, để có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tăng doanh thu và năng suất thì CMCN 4.0 còn phụ thuộc rất lớn vào mạng lưới kết nối công nghệ và kỹ năng, trình độ của người lao động. Chỉ cần một lỗi nhỏ trong quá trình vận hành có thể gây gián đoạn đến toàn hệ thống và gây hậu quả lớn.Điều này nói lên tầm quan trọng của việc thiết lập chế độ bảo vệ an ninh mạng cũng như bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và bảo mật dữ liệu.
(iii) Mô hình kinh doanh: CMCN 4.0 đặt ra những thách thức lớn đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), đặc biệt là các doanh nghiệp đã/sẽ tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu về những thay đổi liên quan đến chi phí, quản trị rủi ro, giảm thiểu tính linh hoạt và sự độc lập trong chiến lược kinh doanh. Theo khảo sát 1000 doanh nghiệp có tổng doanh thu hàng năm từ 500.000 đến 125 triệu Euro tại Đức thì có đến 35% DNNVV nói rằng công nghệ số không có vai trò lớn trong hoạt động của họ. Đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn con số này là 52%. Điều này nói lên rằng còn một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp chưa ý thức được hoặc chưa quan tâm đến sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, do vậy chưa có bước chuẩn bị hữu ích để ứng phó với xu hướng toàn cầu này. Khi CMCN 4.0 phát triển, năng suất lao động tăng, chi phí giảm kéo theo giá hàng hóa giảm; lúc này các DNNVV phải đứng trước lựa chọn điều chỉnh mô hình cho phù hợp hoặc đối mặt với thất bại.
Trên thực tế, Chính phủ và đặc biệt là khu vực công đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập một môi trường chung giúp các DNNVV chuyển đổi hoạt động để bắt kịp với CMCN cũng như xác định các tiêu chuẩn cụ thể để thực hiện CMCN 4.0. Do đó, giai đoạn 10-15 năm tới, khu vực công phải có trách nhiệm hỗ trợ và điều hành quá trình này thông qua nhiều công cụ khác nhau.
(iv) Thị trường lao động: CMCN 4.0 sẽ tạo ra mộtsự dịch chuyển lớn nguồn lực lao động. Theo nghiên cứu của OECD, trong tương lai trung bình có 9% việc làm hiện nay có nguy cơ bị thay thế hoàn toàn bởi tự động hóa;khoảng 47% các công việc hiện tại ở Mỹ có thể sẽ biến mất vì tự động hóa; 30% việc làm sẽ trải qua quá trình trang bị lại, bao gồm các kỹ năng mới. Khi thời kỳ robot và tự động hóa lên ngôi, hàng triệu người sẽ rơi vào cảnh thất nghiệp, đặc biệt là những nhân công trong ngành vận tải, kế toán, môi giới bất động sản hay bảo hiểm. Bên cạnh đó, yêu cầu đối với chất lượng nguồn nhân lực là một trong những vấn đề lớn nhất trong CMCN 4.0 do những thiếu hụt lớn về nguồn nhân lực trong thị trường kỹ thuật số. Ước tính đến năm 2020, riêng khu vực Châu Âu có thể thiếu khoảng 825.000 chuyên gia trong mảng lĩnh vực này. Điều này đòi hỏi hệ thống giáo dục và đào tạo cần phải lường trước được những nhu cầu thay đổi, đặc biệt là những kỹ năng mới để thiết kế chương trình học cho phù hợp. Bên cạnh đó, cũng cần phải đơn giản hóa hệ thống thuế và an ninh xã hội, hạn chế những chí phí ngoài tiền lương; tăng lợi ích của bảo hiểm của hệ thống an sinh xã hội.
4.2. Tác động tới ngành ngân hàng
(i) Sự phát triển của đồng tiền điện tử (Bitcoin) buộc NHTW các nước phải thay đổi điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) để thích ứng. Bitcoin là bằng chứng rõ ràng nhất về sự ra đời và phát triển của đồng tiền điện tử không do NHTW phát hành. Trên thực tế, nhiều ý kiến cho rằng ngay cả khi tiền điện tử khó có thể thay thế tiền tệ của một quốc gia, tác động nhất định của nó tới việc điều hành CSTT ở các NHTW là không thể phủ nhận. Ngân hàng Trung ương (NHTW) Châu Âu (ECB) cũng cho rằng mức độ hiệu quả của các công cụ CSTT có thể bị ảnh hưởng bởi sự chấp nhận rộng rãi tiền điện tử. Sự xuất hiện của đồng tiền này có thể tác động xấu tới các chỉ số tiền tệ trong mục tiêu ổn định giá cả.
Một trong những điểm quan trọng quyết định ảnh hưởng của tiền điện tử đối với CSTT là tổ chức phát hành. Nếu tổ chức phát hành là các ngân hàng, CSTT không hề bị ảnh hưởng vì tiền điện tử lúc này chỉ là 1 dạng khác của tiền mặt thông thường. Nếu tổ chức phát hành không phải là ngân hàng mà là một tổ chức trong nước, tiền điện tử có thể được coi như một dạng séc du lịch và được tính như một phần của cung tiền. Tuy nhiên, vấn đề lớn hơn khi tổ chức phát hành này ở nước ngoài vì khi đó NHTW không có thẩm quyền đối quản lý và giám sát họ. Điều này tác động tới việc tính toán và đo lường cung tiền, cũng như hiệu quả hoạt động của các công cụ CSTT, giống với các quốc gia mà đồng đô-la hay ngoại tệ mạnh được lưu hành như một hình thức thanh toán thay thế. Bên cạnh đó, vì tiền điện tử có thể làm cho việc giao dịch ngoại hối trở nên hết sức dễ dàng[8] nên NHTW cũng phải đối mặt với rủi ro rơi vào tình trạng giống đô la hóa chỉ đơn giản bằng một vài cú nhấp chuột. Dạng tiền điện tử cũng ảnh hưởng tới tác động của tiền điện tử đối với CSTT. Ở dạng không trực tuyến (offline), tiền điện tử có thể dễ kiểm soát hơn đối với NHTW. Các cửa hàng sẽ ưu tiên các hệ thống nội địa, trong khi đó khách hàng cũng sẽ chọn những hệ thống nội địa vì tính dễ được chấp nhận. Ngược lại, đối với tiền điện tử trực tuyến (online), do không hề có giới hạn vật lý về phương thức cũng như công cụ thanh toán, người dùng có thể tùy ý lựa chọn dịch vụ nào phù hợp nhất với họ. Do đó, người dùng có thể lựa chọn những nhà cung cấp nằm ngoài sự kiểm soát của các NHTW, gây ra những vấn đề như đã đề cập ở trên.
Ngoài ra, sự phát triển của tiền điện tử cũng có thể có những tác động tới hệ số tạo tiền. Cụ thể, việc tiền điện tử được sử dụng rộng rãi có thể làm tăng hiệu quả của hệ thống thanh toán, thanh toán đa quốc gia sẽ trở nên cực kì thuận lợi, qua đó đẩy nhanh tốc độ lưu thông tiền mặt trong nền kinh tế. Những tác động này cần phải được tính đến trong tương lai, khi tiền điện tử trở nên phổ biến hơn.
(ii) Tác động tới mô hình tổ chức, mô thức quản trị, kênh phân phối và sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Thứ nhất, CMCN 4.0 sẽ tác động tới mô thức quản trị ở các ngân hàng thông qua sự xuất hiện của trí thông minh nhân tạo (AI – Aritificial Inteligence). AI đang là trọng tâm phát triển của rất nhiều công ty công nghệ lớn trên thế giới như Google. Trong tương lai gần, AI sẽ dần trở nên hoàn thiện; thậm chí về một số mặt nào đó có thể thông minh và chính xác hơn con người. Các ngân hàng có thể ứng dụng AI trong việc quản lý danh mục rủi ro, quản lý khách hàng và quản lý cơ sở dữ liệu. Với khả năng tự học hỏi và thích nghi, tiềm năng của AI là không giới hạn trong các ứng dụng, vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với ngành Ngân hàng trong tương lai là nắm bắt được xu hướng, ứng dụng cách làm việc và kiểm soát AI để đảm bảo hoạt động ngân hàng diễn ra an toàn, hiệu quả.Mô hình ngân hàng số hoạt động dựa trên nền tảng công nghệ thông qua các thiết bị số kết nối với các phần mềm máy tính qua môi trường mạng Internet trên thực tế đã, đang và sẽ làm thay đổi toàn bộ cấu trúc hệ thống của ngân hàng. CMCN 4.0 cũng sẽ tạo ra những bước tiến mới trong thay đổi cách giao tiếp và xử lý nghiệp vụ thông qua tương tác và giao tiếp điện tử. Với hạ tầng viễn thông ngày càng phát triển, các cuộc đàm thoại đã dần trở thành các cuộc gọi hình ảnh (video-call) với mức độ ổn định và chất lượng ngày càng tăng. Do đó, công việc chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng cũng sẽ dần đòi hỏi thêm những kĩ năng làm việc từ xa qua video-call. Trong tương lai không xa, công nghệ thực tế ảo (virtual-reality) và hình ảnh ba chiều (holography) sẽ có thể thay thế hoàn toàn cách giao tiếp của con người. Các cuộc gọi 3D như trong các bộ phim viễn tưởng có thể sẽ không còn xa vời.
Thứ hai, CMCN 4.0 sẽ làm thay đổi hoàn toàn kênh phân phối và các sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, sự xuất hiện của điện thoại thông minh (Smartphone) đã thay đổi hoàn toàn cách con người giao tiếp và tương tác, kéo theo sự thay đổi trong kênh phân phối, mạng lưới bán hàng và cách thiết kế sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng. Kênh bán hàng qua Internet, Mobilebanking,Tablet Banking, mạng xã hội (Social Media), phát triển ngân hàng số và giao dịch không giấy tờ sẽ là xu thế phát triển mạnh[9]. Trải nghiệm khách hàng sẽ là xu hướng vượt trội, ở một số nước phát triển, kể cả các nước đang phát triển đã xuất hiện ngày càng nhiều "ngân hàng không giấy". Nhờ ứng dụng chuyển đổi kỹ thuật số, các sản phẩm của ngân hàng có thể tích hợp được với nhiều sản phẩm dịch vụ phụ trợ để làm hài lòng khách hàng. Việc áp dụng các nguyên tắc của CMCN 4.0, các vấn đề như giao diện lập trình ứng dụng (API), phân phối liền mạch hay phân tích thông minh (intelligence analytics) sẽ là những ứng dụng phổ biến trong hoạt động phát triển sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao của các ngân hàng. Ngoài ra, dữ liệu lớn (Big Data) và phân tích hành vi khách hàng cũng đang trở thành xu hướng tương lai cho thời đại công nghệ số khi có thể thu thập dữ liệu bên trong và bên ngoài thông qua tổ chức phân tích hành vi khách hàng nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, mang lại giá trị gia tăng, tiết giảm chi phí và hỗ trợ cho các quá trình ra quyết định.
Thứ ba, an ninh mạng trở nên vô cùng quan trọng trong hoạt động ngân hàng do sự phát triển của hạ tầng viễn thông đặt ra những thách thức mới về bảo mật. Với sự phát triển ngày càng tinh vi của công nghệ số và xu hướng chuyển dần sang điện toán đám mây (cloud-computing), những lỗ hổng bảo mật cũng vì thế mà tăng theo, kéo theo những lo ngại ngày càng nghiêm trọng về rủi ro tấn công tin tặc (hackers). Trong nhiều trường hợp, một số cá nhân tổ chức cá nhân có thể thu thập thông tin cá nhân riêng tư của người khác và đăng tải trên mạng. Điều này đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải có trách nhiệm xã hội nhiều hơn, quan tâm nhiều hơn đến tính an toàn và riêng tư trong thông tin của khách hàng và có cách thức phòng thủ mới để bảo đảm an toàn bảo mật mạng. Theo đó, các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng vừa và nhỏ ngoài việc trang bị cho mình những công cụ bảo mật mới như sử dụng phương pháp sinh trắc học, quét mống mắt, vân tay để thay thế mật khẩu hay an toàn bảo mật mạng; cần quan tâm hơn nữa tới việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu dự phòngvà nâng cao nhận thức về bảo mật và an toàn thông tin trong toàn hệ thống.
II. CƠ HỘI, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM VÀ NGÀNH NGÂN HÀNG
1. Cơ hội, thách thức đối với Việt Nam
Như đã phân tích ở trên, CMCN 4.0 sẽ tác động đến (i) trình độ phát triển kinh tế; (ii) tăng trưởng kinh tế; (iii) mô hình kinhdoanh; và (iv) thị trường lao động của các quốc gia. Chủ động nắm bắt và chuẩn bị các điều kiện cần thiết sẽ giúp mỗi quốc gia tận dụng được những cơ hội tốt và hạn chế những khó khăn thách thức sẽ gặp phải khi hòa nhập cùng CMCN 4.0.Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới với việc hoàn tất nhiều hiệp định thương mại tự do quy mô lớn như TPP, FTA với EU, Liên minh kinh tế Á - Âu..., việc tiếp cận thành tựu cách mạng sản xuất mới để tham gia hiệu quả chuỗi giá trị toàn cầu và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhu cầu cấp thiết.
Đối với Việt Nam, các cơ hội có thể kể đến bao gồm:
- Cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân: Những người được hưởng lợi lớn nhất từ CMCN 4.0 sẽ là những người tiêu dùng có điều kiện tiếp cận và sử dụng thế giới số. Công nghệ đã giúp tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, từ đó tăng hiệu quả và thỏa mãn cuộc sống cá nhân của mỗi con người. Theo đó, việc gọi xe taxi, đặt vé máy bay, mua sản phẩm, thanh toán, nghe nhạc, xem phim hay chơi trò chơi… đều có thể được thực hiện từ xa;
-Nâng cao năng suất lao động, cải thiện hiệu quả nguồn lực, rút ngắn khoảng cách về trình độ sản xuất với thế giới, góp phần tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, tăng số lượng và chất lượng lao động có trình độ cao: Quá trình tiếp cận CMCN 4.0 là nền tảng giúp Việt Nam từng bước hội nhập, giao lưu với nền khoa học công nghệ của thế giới, qua đó học tập kinh nghiệm, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ mớiphục vụ cho sự phát triển của kinh tế- xã hội của đất nước,góp phần đưa Việt Nam tiến dần đến trình độ của thế giới. Trong tương lai, sáng tạo công nghệ cũng sẽ đổi thay kỳ diệu lĩnh vực cung cấp, với những lợi ích lâu dài về tính hiệu quả và năng suất. Chi phí vận chuyển và liên lạc giảm, dây chuyền hậu cần và cung cấp toàn cầu sẽ trở nên hiệu quả hơn, chi phí thương mại được giảm thiểu. Tất cả những yếu tố đó sẽ mở ra những thị trường mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;
- Tận dụng thành tựu từ những công nghệ hoàn toàn mới trong đó có công nghệ sinh học, tạo nên đột phá quan trọng trong những chuỗi giá trị công nghiệp và nông nghiệp cho quốc gia:Việc nắm bắt và tận dụng những thành tựu nên trên sẽ giúp Việt Nam tổ chức lại quy trình nông nghiệp (bao gồm cả quy trình tăng năng suất, tưới nước, tiết kiệm, giống cây trồng), quan tâm đến việc phát triển các sản phẩm và thương hiệu sản phẩm sạch; đầu tư vào tổ chức sản xuất và tiêu thụ trong chuỗi giá trị toàn cầu. Theo đó, vai trò của doanh nghiệp, nhất là các DNNVV, các doanh nghiệp khởi nghiệp (start-up) trong lĩnh vực nông nghiệp là hết sức quan trọng. Cần sớm tổng kết việc thực hiện chuỗi liên kết giá trị và ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp để có hướng đầu tư thích hợp cho việc ứng dụng khoa học trong giai đoạn mới.
- Tăng khả năng kết nối, trao đổi giữa Chính phủ và người dân:Khi thế giới vật lý, số và sinh học đang tiếp tục xích lại gần nhau hơn thì công nghệ và thiết bị sẽ ngày càng cho phép người dân tiếp cận gần hơn tới Chính phủ để nêu ý kiến, cùng phối hợp hoạt động. Đồng thời, các chính phủ cũng sở hữu sức mạnh về công nghệ để tăng cường sự lãnh đạo của mình đối với người dân dựa trên những hệ thống giám sát rộng rãi và khả năng điểu khiển hạ tầng số.
Bên cạnh đó, với xuất phát điểm thấp, trình độ công nghệ còn lạc hậu so với thế giới, lực lượng lao động dồi dào nhưng thiếu lao động chất lượng cao, trước tốc độ thay đổi nhanh chóng và tác động sâu rộng của CMCN 4.0, Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít thách thức:
- Gia tăng mức độ cạnh tranh đa quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu:Những lĩnh vực trong CMCN 4.0 như công nghệ sinh học, sản xuất sạch, doanh nghiệp/nhà máy thông minh còn rất mới mẻ với Việt Nam. Là một quốc gia chủ yếu dựa vào nông nghiệp, nếu không chủ động thay đổi quy trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, ứng dụng công nghệ sinh học và công nghệ sạch, các doanh nghiệp trong nước sẽ khó để cạnh tranh với các doanh nghiệp sản xuất khu vực và quốc tế. Vì vậy, các doanh nghiệp đặc biệt là các DNNVV cần ý thức và quan tâm đến sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, từ đó có bước chuẩn bị kỹ lưỡng và cẩn trọng để ứng phó với xu hướng toàn cầu này;
- Nguy cơ phá vỡ thị trường lao động: Khi tự động hóa thay thế con người trong toàn bộ nền kinh tế, người lao động sẽ bị dư thừa; các công việc an toàn và thu nhập cao hơn có thể sẽ gia tăng sau khi công nghệ thay thế dần con người. Trong tương lai, chất lượng nguồn nhân lực, chứ không phải nguồn vốn, sẽ trở thành nhân tố cốt lõi của nền sản xuất, tạo nên sự phân hóa trong thị trường lao động: Nhóm kỹ năng thấp/trả lương thấp và nhóm kỹ năng cao/trả lương cao; góp phần gia tăng mâu thuẫn trong xã hội;
- Nguy cơ gia tăng bất bình đẳng: Những đối tượng được hưởng lợi nhiều nhất từ sự sáng tạo sẽ là những nhà cung cấp vốn tri thức và vốn tài chính như các nhà sáng chế, cổ đông và nhà đầu tư, kéo theo khoảng cách ngày càng lớn về giàu nghèo giữa những đối tượng này với những đối tượng phụ thuộc vào sức lao động;
- Nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, gia tăng xung đột giữa các quốc gia: Lịch sử chiến tranh và an ninh quốc tế là lịch sử của sự sáng tạo về công nghệ, điều này cũng không phải là ngoại lệ đối với Việt Nam. Quá trình diễn ra CMCN 4.0 sẽ khiếncác công nghệ mới như vũ khí tự động và vũ khí sinh học trở nên dễ dàng sử dụng hơn. Từng cá nhân hoặc các nhóm nhỏ sở hữu công nghệ này có khả năng gây ra những tổn thương hàng loạt với quy mô mang tầm quốc gia. Tuy vậy, những tiến bộ về công nghệ cũng đồng thời tạo ra tiềm năng giúp làm giảm quy mô và tác động của bạo lực bằng cách phát triển các phương thức bảo vệ mới, chẳng hạn như độ chính xác cao hơn trong ngắm bắn mục tiêu.
2. Cơ hội, thách thức đối với ngành Ngân hàng
2.1. Cơ hội, thách thức đối với hoạt động điều hành chính sách của NHNN
CMCN 4.0 sẽ mang lại cơ hội lớn cho NHNN trong việc ứng dụng mô hình quản trị NHTW hiện đại hướng tới khuôn khổ lạm phát mục tiêu. Công nghệ quản trị thông minh AI và tự động hóa trong quy trình nghiệp vụ của CMCN 4.0 sẽ giúp NHNN đẩy nhanh được tiến trình hướng tới mô hình NHTW hiện đại, chuyển đổi các dịch vụ cung ứng của NHNN từ chủ yếu xử lý thủ công sang môi trường điện tử hoàn toàn. Theo đó, hiện đại được hiểu là NHNN cần có sự gia tăng vềchất lượngtrong thực hiện các nhiệm vụ đó. Theo thời gian, các quyết định của NHNN phải gia tăng tính chính xác,kịp thời (ứng dụng công nghệ để cải thiện năng lực phân tích, dự báo) và tăng tính khách quan, minh bạch và giải trình (hiện đại hóa các thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ số trong quản trị điều hành, tự động hóa một số khâu trong quy trình nghiệp vụ).
Tuy nhiên, các thách thức đặt ra đối với hoạt động điều hành chính sách của NHNN là không hề nhỏ, cụ thể:
(i) Thách thức trong việc điều hành CSTT trong bối cảnh tiền điện tử ngày càng được sử dụngvà chấp nhận rộng rãi:Trong tương lai, sự phát triển của CNTT có thể dẫn tới một hệ thống tiền tệ toàn cầu với những giao dịch điện tử diễn ra theo thời gian thực và do đó, khả năng các NHTW gặp khó khăn trong việc kiểm soát hệ thống tiền tệ quốc gia là hoàn toàn có thể xảy ra. Đặc biệt, việc NHTW không thể kiểm soát lượng cung tiền của nền kinh tế trong trường hợptổ chức phát hành tiền điện tử là các định chế tài chính phi ngân hàng tại nước ngoài. Đây là một trở ngại mà NHNN sẽ phải lường trước trong 10-15 năm tới.
(ii)Thách thức trong việc kiểm soát soát dòng tiền, rủi ro trong thanh toán và an toàn hoạt động toàn hệ thống trong xu hướng các hoạt động tài chính phi ngân hàng/ngân hàng ngầm[10] ngày càng phát triển: Hiện nay, xu hướng thâm nhập giữa các công ty công nghệ (Fi-tech) vào lĩnh vực ngân hàng kéo theo sự phát triển và khả năng xâm chiếm của hoạt động ngân hàng ngầm, đặc biệt đối với các hoạt động thanh toán phi truyền thống (cổng thanh toán điện tử, ví điện tử[11], thanh toán do công ty viễn thông cung cấp…). Điều này đặt ra thách thức không nhỏ cho NHNN trong việc quản lý cấp phép, giám sát hoạt động cũng như kiểm soát dòng tiền thanh toán từ các tổ chức này.
(iii) Thách thức từ việc hạ tầng thanh toán phát triển chưa đồng đều và chưa thực sự hoàn thiện: Cơ sở hạ tầng thanh toán đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của dịch vụ ngân hàng mới, đặc biệt là các sản phẩm thanh toán ứng dụng công nghệ cao nhưví điện tử, ví ảo (Virtual Wallets)… Bên cạnh đó, hạ tầng thanh toán được ví như "xương sống" liên kết các đơn vị cung ứng dịch vụ thanh toán và các tổ chức, cá nhân khác. Một cơ sở hạ tầng mạnh sẽ đảm bảo các giao dịch được diễn ra nhanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các khách hàng, tiết kiệm chi phí thanh, quyết toán. Hiện nay, hệ thống thanh toán của Việt Nam vẫn còn tồn tại cấu phần chưa được tập trung, hạn chế trong công nghệ và thời gian xử lý giao dịch. Thêm vào đó, các tiêu chuẩn về thẻ chip nội địa, chuẩn tin điện tài chính chưa được triển khai áp dụng để tạo sự đồng bộ và có thể kết nối hệ thống thanh toán trong nước với khu vực theo lộ trình hội nhập tài chính khu vực ASEAN.
CMCN 4.0, như phân tích ở trên nhấn mạnh yếu tố "kết nối" trong "chuỗi giá trị thông minh" dựa trên công nghệ IOT và điện toán đám mây, do đó, NHNN cũng sẽ gặp không ít khó khăn để hội nhập và kết nối với hệ thống thanh toán khu vực và quốc tế nếu không chủ động cải tiến công nghệ và nắm bắt các xu hướng mới.
(iv)Thách thức trong việc chuyển đổi hoạt động thanh tra giám sát từ chủ yếu dựa trên thanh tra tại chỗ sang thanh tra giám sát trên cơ sở rủi ro dựa vào việc giám sát từ xa trên nền tảng công nghệ phân tích dữ liệu lớn (Big Data); kết nối, giám sát trực tuyến (online) đối với một số chỉ tiêu hoạt động chính của các TCTD để xử lý kịp thời các rủi ro, mất an toàn.
(v)Thách thức năng lực thể chế, đó là việc xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phục vụ hoạt động ngân hàng số, hoạt động thanh toán phi truyền thống: Khuôn khổ pháp lý và cơ chế chính sách liên quan đến hoạt động ngân hàng số, đến thanh toán không dùng tiền mặt cần được rà soát, sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu thực tế, nhất là cho các sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử, phương tiện thanh toán điện tử mới. Hiện nay, nhiều nội dung chưa được các luật hiện hành hỗ trợ nên các quy chế nghiệp vụ mới đôi khi chỉ dừng lại trong phạm vi luật hiện hành cho phép, không phù hợp với phương thức giao dịch điện tử, làm hạn chế khả năng tận dụng thế mạnh của công nghệ mới của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, tính pháp lý của việc sử dụng chứng từ điện tử và dữ liệu điện tử thay thế chứng từ giấy cho quan hệ thanh toán giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và khách hàng cần phải được cụ thể hóa bằng các văn bản luật. Sự phối hợp từ các Bộ ngành khác trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng cũng đang gặp những khó khăn không nhỏ về quan điểm, thời gian, không gian nhằm theo kịp sự thay đổi của thị trường tài chính.
2.2. Cơ hội, thách thức đối với hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD)
Đối với hệ thống các TCTD, những tiến bộ từ cuộc CMCN 4.0 là bàn đạp giúp các ngân hàng trong nước phát triển và cạnh tranh với các ngân hàng tiên tiến trong khu vực và trên thế giới trong điều kiện nắm bắt, thích nghi và thay đổi kịp thời với xu thế công nghệ mới. Ảnh hưởng của CMCN 4.0 mà cụ thể là Internet di động, điện toán đám mây, lưu trữ dữ liệu quy mô lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT) sẽ giúp các ngân hàng trong nước định hình lại mô hình kinh doanh, quản trị, hướng tới việc xây dựng các ngân hàng kỹ thuật số thông minh trong tương lai. Tuy nhiên, các thách thức đặt ra là:
(i)Thách thức cho các ngân hàng trong việc thay đổi mô hình kinh doanh, mô hình quản trị:Sự dịch chuyển tất yếu từ số hóa đơn giản (CMCN lần thứ ba) sang sự sáng tạo/thông minh hóa dựa trên sự kết hợp công nghệ (CMCN 4.0) đang buộc các ngân hàng trong nước phải xem xét lại cách thức hoạt động kinh doanh của mình, có những điều chỉnh để phù hợp với xu hướng quản trị thông minh AI, mô hình ngân hàng di động, ngân hàng không giấy, ngân hàng số.Hiện nay trên thực tế, 100% các ngân hàng trong nước đều áp dụng phương pháp quản trị tập trung dựa trên hệ thống ngân hàng lõi (corebanking), tuy nhiên,sự phát triển không đồng đều về công nghệ giữa các ngân hang cản trở việc ứng dụng các vấn đề nghiệp vụ mang tính toàn ngành. Khó khăn, thách thức trong việc kết nối có tính hệ thống của các TCTD để cùng khai thác, phát triển các loại dịch vụ ngân hàng đối với nền kinh tế. Nhiều ngân hàng đã đạt được trình độ công nghệ tiên tiến, nhưng không ít ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng vừa và nhỏ đang phải sử dụng vận hành những hệ thống thiếu đồng bộ, trình độ công nghệ ở mức thấp.
(ii) Thách thức trong việc phát triển các kênh phân phối mới, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, mang tính tích hợp cao. Chúng ta đang sống trong một Thế giới siêu kết nối (Hyperconnnected world) với những tin nhắn trực tuyến, mạng xã hội, máy tính bảng cảm ứng đa điểm (multi-touch tablets) và hàng loạt công nghệ sinh học, số hóa khác[12]. Những thay đổi lớn về nhu cầu cũng đang diễn ra khi tính minh bạch ngày một cao, sự tham gia của người tiêu dùng và những hành vi mới của người tiêu dùng (ngày càng được xây dựng trên cơ sở tiếp cận mạng lưới và dữ liệu di động) buộc các ngân hàng phải điều chỉnh phương thức thiết kế, tiếp thị và phân phối sản phẩm và dịch vụ của mình.
Khách hàng thời đại CMCN 4.0 sẽ khó tính hơn, đòi hỏi nhiều lựa chọn hơn, tiếp cận dễ dàng hơn cùng các phương thức phân phối và dịch vụ chất lượng, nhanh chóng và hiệu quả hơn; họ có quyền kiểm soát hơn nhiều trong các giao dịch và không còn bị lệ thuộc vào số lượng hạn chế các nhà cung cấp dịch vụ, chính vì vậy họ trở nên quyền lực hơn. Cái khách hàng cần là tiện ích của cả dịch vụ ngân hàng khả năng thanh toán được tích hợp trên cùng một thiết bị và điện thoại di động chính là thiết bị đó. Nó cho phép cả người dùng cũ và mới tiếp cận với hệ sinh thái hoàn toàn mới trong đó họ có thể sử dụng các dịch vụ di động tại bất cứ nơi nào, bất cứ thời gian nào và do đó nó sẽ trở thànhđộng lực lớn nhất đằng sau sự biến đổi hành vi khách hàng trong hoạt động ngân hàng trên toàn cầu. Dự báo, trong vòng 10 năm tới, phần lớn doanh thu của ngân hàng bán lẻ là nhờ vào web, điện thoại di động hay ứng dụng trên máy tính bảng. Do đó, nếu các ngân hàng trong nước không nắm bắt và thay đổi theo xu thể, cải thiện khả năng ứng dụng trên điện thoại di động của các tiện ích dịch vụ, phát triển mạnh các hỗ trợ dịch vụ qua Internet thì việc khách hàng tiếp tục sử dụng và gắn bó lâu dài với ngân hàng là rất khó khăn[13]. Điều các ngân hàng trong nước cần chú trọng là tối đa hóa trải nghiệm khách hàngdựa trên việc nắm bắt và hiểu rõ xu hướng trên.
(iii)Thách thức trong xu hướng giảm dần vai trò của các chi nhánh[14].Các chi nhánh không còn đóng vai trò quan trọng nhất - đồng thời cũng sẽ không phải là kênh phân phối mang lại nhiều lợi nhuận nhất trong tương lai. Nếu như trong quá khứ, tính tiện ích cốt lõi của ngân hàng bán lẻ chỉ đơn giản là phân phối tiền mặt và hệ thống chi nhánh xuất hiện nhằm giúp ta tiếp cận được với số tiền mặt đó thì ngày nay, những tiện ích cơ bản mà một ngân hàng cung cấp luôn sẵn sàng tại mọi thời điểm trong không gian kỹ thuật số - nói cách khác, chúng ta đã chuyển từ chỗ phụ thuộc vào chi nhánh để được cung cấp tiện ích của một ngân hàng xác định sang chỉ phụ thuộc tiện ích của một ngân hàng bất kỳ.
(iv) Thách thức do hạn chế về nguồn lực tài chính trong đầu tư công nghệ, thiếu trung tâm dữ liêu dự phòng:Việc đầu tư cho hạ tầng công nghệcủa một số ngân hàng còn khá hạn chế do chi phí cho phát triển và thực thi cao. Nhà nước có thể đứng ra hỗ trợ các ngân hàng thông qua việc xây dựng một trung tâm dịch vụ công cung ứng hạ tầng cơ sở dữ liệu dự phòng vì trên thực tế nhiều ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ và vừa chưa có/chưa đủ tiềm lực xây dựng trung tâm dữ liệu dự phòng; hoặc nếu có thì trung tâm này chưa đáp ứng tiêu chuẩn quốc gia. Điều này tác động không nhỏ đến vấn đề an ninh CNTT trong bối cảnh công nghệ phát triển ngày càng tiên tiến và tinh vi, dễ dẫn đến nguy cơ mất quyền kiểm soát hệ thống của các TCTD.
(v)Thách thức chung cho toàn hệ thống ngân hàng về bảo mật thông tin và an ninh mạng tài chính quốc gia, về các loại tội phạm công nghệ cao, cũng như thách thứcvề trình độ, năng lực, số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ CNTT(gọi chung là rủi ro IT ngày một lớn hơn với hệ thống ngân hàng):
(v1) Về an ninh bảo mật và tội phạm công nghệ cao:Sự phát triển ngày càng tinh vi của công nghệ số kéo theo sự gia tăng những lỗ hổng bảo mật, tạo điều kiện cho bọn tội phạm công nghệ cao, tin tặc (hackers) hoạt động ngày càng thường xuyên. Ngành ngân hàng luôn được đánh giá là ngành có ứng dụng công nghệ thông tin tốt nhất Việt Nam. Tuy nhiên, điều này cũng tạo thách thức cho các ngân hàng Việt Nam khi phải đối mặt với những tác động từ CMCN 4.0 vì hệ thống thông tin càng hiện đại thì rủi ro càng cao. Nhiều NHTW trên thế giới đang nỗ lực ngăn ngừa các cuộc tấn công mạng. Sự kiện NHTW Bangladesh[15] bị hacker tấn công mạng tháng 2/2016 vừa qua chính là lời cảnh báo, bài học nhãn tiền cho NHNN Việt Nam trong việc quan tâm hơn nữa đến hạ tầng bảo mật thông tin.
Đối với hệ thống các TCTD, xu hướng sử dụng mạng xã hội, điện thoại thông minh smartphone kéo theo sự thay đổi trong hành vi của khách hàng khiến các ngân hàng ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào CNTT. Thêm vào đó, sự gia tăng không ngừng của các sản phẩm tài chính xuyên biên giới và các sản phẩm tài chính phái sinh trong bối cảnh hội nhập là cũng là nguyên nhân khiến hạ tầng an ninh mạng trở nên vô cùng quan trọng đối với các ngân hàng. Ngoài việc làm tê liệt mọi giao dịch của ngân hàng, loại tội phạm công nghệ cao luôn dình dập tấn công vào tài khoản, làm giả phôi thẻ và ăn cắp tiền của khách hàng, các hackers còn có thể tấn công trực diện vào hệ thống của một ngân hàng, thực hiện chuyển tiền với số lượng lớn như vụ tấn công vào ngân hàng TMCP Tiên Phong cuối năm 2015[16], do đó, các ngân hàng Việt Nam cần tỉnh táo hơn nhận ra các nguy cơ hiện hữu để ngăn ngừa các vụ tấn công tương tự. Các ngân hàng cần phải có các cơ chế bảo mật cao; cơ chế ngăn ngừa nhiều tầng để ngăn chặn các cuộc tấn công đồng thời áp dụng những cách thức phòng thủ mới vì cách thức tấn công đang thay đổi.
(v2) Về chất lượng nguồn nhân lực:Đây là vấn đề cốt lõi quyết định sự thành công và phát triển bền vững trước những thay đổi của CMCN 4.0. Các chính sách tuyển dụng, đãi ngộ, sử dụng...cũng cần được nghiên cứu chỉnh sửa hợp lý nhằm thu hút được nhân tài phục vụ lâu dài cho ngành Ngân hàng không những là công việc trước mắt mà nó có ý nghĩa lâu dài trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực Ngân hàng.Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ là về trình độ nghiệp vụ ngân hàng mà đi liền là kỹ năng về vận hành công nghệ số, tính tuân thủ về quy trình vận hành cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng trong môi trường IT.
III. ĐỊNH HƯỚNG TIẾP CẬN ỨNG DỤNG CMCN 4.0 TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG VÀ KIẾN NGHỊ
1. Những xu hướng chính định hình sự phát triển hệ thống tài chính - ngân hàngđến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035
(i) Hệ thống ngân hàng sẽ phát triển một cách thận trọng theo xu hướng chuyên nghiệp và đa năng. Lịch sử phát triển ngân hàng cho thấy sự phát triển của khu vực ngân hàng đã hình thành hai xu hướng phát triển rõ nét đó là phát triển theo hướng chuyên nghiệp (Ngân hàng thương mại hoặc Ngân hàng đầu tư) và phát triển theo hướng đa năng (Ngân hàng cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính ngân hàng-universal bank). Trong hai thập kỷ tới, hai xu hướng phát triển chuyên nghiệp và phát triển đa năng vẫn là những xu hướng phát triển chủ đạo hướng tới việc mở rộng quy mô hoạt động để hình thành các tổ chức tài chính phức hợp có thể cung cấp nhiều dịch vụ cho thị trường quốc tế và quản lý hàng tỷ đô la dưới hình thức tiền mặt và tài sản với sự hỗ trợ của những công nghệ ngân hàng hiện đại do CMCN 4.0 mang lại.
(ii) Quản trị ngân hàng, quản trị rủi ro được hoàn thiện và phát triển theo các chuẩn mực quốc tế mới. Việc cải tổ hệ thống ngân hàng là một xu hướng tất yếu và sẽ diễn ra chủ yếu trên các mặt sau: (i) Nâng cao vai trò của các cơ quan giám sát đối với hoạt động ngân hàng, nhất là giám sát các hoạt động đối với các sản phẩm tài chính mới. Căn nguyên của cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua là do Mỹ và một số nước phát triển theo đuổi học thuyết thị trường tự do tuyệt đối, buông lỏng quản lý trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng trong khi các định chế quốc tế không đủ khả năng để kiểm soát, quản lý các công cụ, sản phẩm tài chính mới, đặc biệt là sản phẩm tài chính phái sinh. Do đó, ưu tiên trước mắt là chấn chỉnh và thắt chặt các quy định quản lý ở tầm quốc gia và quốc tế, phòng ngừa nguy cơ tái phát khủng hoảng; (ii) Nâng cao chất lượng công tác quản lý rủi ro và hiệu quả hoạt động của hệ thống các TCTD. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đã khiến các quốc gia cũng như từng TCTD ý thức được hơn tầm quan trọng của quản lý rủi ro và hiệu quả hoạt động ngân hàng. Trên cơ sở đó, nhiều quốc gia đã siết chặt các quy định về quản lý rủi ro hay cho xu hướng tập trung vào phát triển thị trường, triển khai các sản phẩm mới, sử dụng hiệu quả ứng dụng công nghệ trong quản trị hoạt động ngân hàng; (iii) Cơ cấu lại vốn và đòn bẩy. Giai đoạn hậu khủng hoảng, nhiều quốc gia có xu hướng cơ cấu lại hệ thống đòn bẩy tài chính của hệ thống ngân hàng để nâng cao mức độ an toàn trong hoạt động ở một số khía cạnh. Những lỗ hỗng trong quản trị rủi ro ngân hàng được phát hiện thông qua các cuộc khủng hoảng đã buộc các quốc gia, các tổ chức quốc tế, trong đó có Basel phải phải bổ sung, sữa đổi các chuẩn mực quản trị mới để giảm thiểu đến mức tối đa rủi ro hoạt động của hệ thống ngân hàng.
(iii)Toàn cầu hóa trong hoạt động hệ thống ngân hàng tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Trong hai thập kỷ trước khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra, xu hướng hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng cùng với sự phát triển của nền công nghiệp tài chính, công nghệ thông tin… đã tạo động lực cho các ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động và mạng lưới khách hàng thông qua việc vươn tới các thị trường mới, xa hơn. Kết quả là hoạt động mở chi nhánh, văn phòng đại diện của các ngân hàng diễn ra mạnh mẽ hơn. Mô hình công ty sở hữu ngân hàng mua lại các ngân hàng nhỏ và đưa chúng trở thành bộ phận của các tổ chức ngân hàng đa trụ sở đã ngày càng phổ biến. Sự bành trướng địa lý và hợp nhất các ngân hàng đã vượt ra khỏi ranh giới lãnh thổ một quốc gia đơn lẻ và lan rộng ra với quy mô toàn cầu, kéo theo sự phát triển của các dịch vụ tài chính xuyên biên giới. Bên cạnh đó, việc bùng nổ hoạt động ngân hàng cũng như sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn trong lĩnh vực này đã làm dấy lên nhu cầu tất yếu của việc phát triển hoạt động ngân hàng xuyên biên giới thông qua các hình thức như hợp tác, mua lại, sáp nhập, hiện diện thương mại, kể cả không có hiện diện thương mại và các sản phẩm tài chính xuyên biên giới (như đã đề cập ở trên).
(iv) Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản trị vàphát triển sản phẩm ngày càng trở nên mạnh mẽ. Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại trên nền tảng CNTT kết hợp với công nghệ viễn thông là một xu hướng phát triển tất yếu trong thời gian tới đối với hệ thống ngân hàng thế giới. Công nghệ thông minh sẽ tham gia vào quá trình quản trị ngân hàng. Nó thay thế con người trong việc phân tích, nhận diện, đo lường và xử lý rủi ro một cách chính xác, khắc phục nhận định chủ quan và dự đoán sai lầm của con người. Theo đó, xu hướng chiến lược quản trị ngân hàng sẽ là: (i) Quản trị rủi ro và đảm bảo tính tuân thủ; (ii) Xây dựng chiến lược kinh doanh lấy khách hàng làm trọng tâm; (iii) Thúc đẩy các phương tiện thanh toán hiện đại; (iv)Thu hút tiền gửi ngân hàng; (v) Phát triển dịch vụ trên nền ngân hàng lõi; (vi) Dịch vụ thuê ngoài; (vii) Quản lý tiền mặt và thanh khoản; (viii) An toàn bảo mật và tích hợp hệ thống thông tin; (ix) Dịch vụ tài chính trên nền tảng di động.
Bên cạnh việc phát triển các mảng kinh doanh truyền thống là huy động và cho vay, việc phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại trên nền tảng ứng dụng CNTT sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong chiến lược phát triển của các ngân hàng. Đặc biệt tính liên kết giữa dịch vụ, kể cả giữa dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính phi ngân hàng cũng rất được chú trọng nhằm tối ưu hóa năng lực cung ứng dịch vụ ngân hàng của các TCTD và tạo ra chuỗi dịch vụ tài chính, ngân hàng hoàn chỉnh cho nền kinh tế. Thiết kế sản phẩm, dịch vụ ngân hàng sẽ thay đổi theo hướng tăng cường tích hợp trên một phương tiện tại đó khách hàng hoàn toàn có thể tối đa hóa trải nghiệm; chú trọng sử dụng các kỹ thuật công nghệ cao trong ứng dụng sản phẩm. Do đó, các ngân hàng Việt Nam cần nhận diện và đón đầu được xu hướngthanh toán mới: tích hợp giữa điện thoại di động với thẻ tín dụng/thẻ ghi nợ; coi việc nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua các kênh kỹ thuật số là yếu tố cốt lõi. Kỹ thuật số không nên chỉ coi là một tiện ích cộng thêm trong hoạt động ngân hàng mà cần trở thành trung tâm của hoạt động ngân hàng thường nhật trong tương lai gần.
(v)Xu hướng phát triển của các ngân hàng số (ngân hàng điện tử), ngân hàng không giấy, không phòng giao dịch. Mô hình ngân hàng di động/ngân hàng trực tuyến sẽ làm cho vai trò của các chi nhánh ngân hàng ngày sẽ giảm dần. Các chi nhánh không còn đóng vai trò quan trọng nhất – đồng thời cũng sẽ không phải là kênh phân phối mang lại nhiều lợi nhuận nhất trong tương lai. Dự báo trong thập kỷ tới, có khoảng 61-64% dân số thế giới không tiếp xúc với dịch vụ ngân hàng truyền thống. Chiếc điện thoại sẽ trở thành tài khoản ngân hàng trong giao dịch ngân hàng hàng ngày của họ. Như vậy, giá trị cốt lõi của hoạt động ngân hàng nằm ở tính tiện ích, sự dễ dàng hoặc khả năng bảo vệ khách hàng. Trong quá khứ, tính tiện ích cốt lõi của ngân hàng bán lẻ chỉ đơn giản là phân phối tiền mặt và hệ thống chi nhánh xuất hiện nhằm giúp ta tiếp cận được với số tiền mặt đó. Ngày nay, những tiện ích cơ bản mà một ngân hàng cung cấp luôn sẵn sàng tại mọi thời điểm trong không gian kỹ thuật số. Chúng ta đã chuyển từ chỗ phụ thuộc vào chi nhánh để được cung cấp tiện ích của một ngân hàng xác định sang chỉ phụ thuộc tiện ích của một ngân hàng bất kỳ. Theo đó, các ngân hàng sẽ có xu hướng phát triển mạng lưới điện tử, không cần điểm giao dịch truyền thống mà vẫn có doanh thu lớn.
Bên cạnh đó, các ngân hàng thế hệ mới (next generation banking) cũng là một xu hướng đáng được quan tâm[17]. Trong lịch sử phát triển ngành ngân hàng thế giới, có thể thấy cuộc cách mạng lớn nhất trong mô hình hoạt động ngân hàng là từ mô hình ngân hàng truyền thống sang mô hình ngân hàng kỹ thuật số (digitalbanking)[18]. Theo đó, các ngân hàng sẽ: (i) tập trung vào lợi nhuận thay vì doanh thu. Điều này phù hợp với thiết kế tiết giảm chi nhánh/phòng giao dịch như phân tích ở trên (các ngân hàng có thể sẽ có quy mô nhỏ hơn và cấu trúc đơn giản hơn nhưng lại có khả năng tiếp cận rộng lớn hơn). Họ sẽ phục vụ ít phân khúc khách hàng hơn, những lại mở rộng hoạt động ở nhiều thị trường hơn; (ii) quan tâm nhiều hơn đến trải nghiệm khách hàng trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Các sản phẩm sẽ được phân chia thành những cấu phần con để khách hàng có thể tùy ý xây dựng một sản phẩm cuối cùng theo ý mình. Đồng thời, các sản phẩm mới cũng sẽ tiếp tục được ra đời và cải tiến để phù hợp với nhu cầu của khách hàng; (iii) tập trung xác định lại chức năng cốt lõi của mình để thực hiện thuê ngoài một số hoạt động hỗ trợ không còn đem lại lợi thế cạnh tranh và chỉ tập trung vào những dịch vụ ngân hàng lõi ứng dụng những cải tiển kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
(vi)Thay đổi trong cách tiếp cận cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp đi vay và ngược lại,do thành tựu của những cuộc cách mạng công nghệ sinh học, công nghệ sạch, vật liệu mới, cách sản xuất mới và nhà máy thông minh. Những đổi mới trong lĩnh vực sinh học nói chung và di truyền nói riêng thật sự đáng kinh ngạc. Con người đã đạt đượng những thành công trong việc rút ngắn thời gian và chi phí giải trình bộ gen, kích hoạt hay chỉnh sửa gen. Hiện nay, một gien có thể được giải mã trong vài giờ với chi phí không tới một ngàn USD. Với sức mạnh của máy tính, các nhà khoa học không còn phải dùng phương pháp thử, sai và thử lại; thay vào đó họ thử nghiệm cách thức mà các biến dị gen gây ra các bệnh lý đặc thù. Sinh học tổng hợp và công nghệ sạch cũng sẽ là những xu hướng nổi bật trong 10 năm tới. Những tiến bộ này sẽ không chỉ tác động sâu và ngay tức thì về y học mà còn trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và sản xuất nhiên liệu sinh học. Theo đó, Việt Nam cần sớm nắm bắt được xu thế này, đặc biệt là sự phát triển của công nghệ sinh học, công nghệ sạch để tổ chức lại quy trình sản xuất nông nghiệp của Việt Nam (bao gồm quy trình tăng năng suất, tưới nước, tiết kiệm, giống cây trồng), chú trọng phát triển các sản phẩm và thương hiệu sản phẩm sạch; đầu tư vào tổ chức sản xuất và tiêu thụ trong chuỗi giá trị toàn cầu. Như vậy, mô hình tổ chức sản xuất thay đổi, vật liệu mới ra đời, công nghệ quy trình sản xuất căn bản thay đổi thì cách tiếp cận và phương thức cung ứng tín dụng của ngân hàng cũng sẽ phải thay đổi theo.
2. Định hướng tiếp cận ứng dụng CMCN 4.0 của ngành ngân hàng Việt Nam
Không có công nghệ hay sự đột phá nào nằm ngoài sự kiểm soát của con người. Vì vậy, cần biết tận dụng cơ hội và sức mạnh sẵn có đểhội nhập thành công với tiến trình CMCN 4.0 trên phạm vi toàn cầu. Để làm được điều này, Chính phủ Việt Nam nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng cần xây dựng một tầm nhìn toàn diện và tư duy chiến lược về những tác động của CMCN 4.0 tới toàn bộ nền kinh tế; tạo nền tảng cho việc định hình lại môi trường kinh tế, xã hội, văn hóa và con người. Nếu vẫn bó hẹp trong những tư duy truyền thống thì không thể có những đột phá chiến lược và tư duy sáng tạo giúp định hình tương lai.
Theo đó, ngành Ngân hàng cần xác định những định hướng cốt lõi sau trong ứng dụng CMCN 4.0 vào hoạt động của ngành:
Một là, đẩy mạnh đổi mới và ứng dụng các công nghệ hiện đại. Cụ thể:
(i) Tăng cường tích hợp công nghệ thông tin trong quy trình quản lý và quản trị của cả NHNN và hệ thống các TCTD: Đối với NHNN, định hướng trong giai đoạn 5-10 năm tới tập trung vào việc tiếp tục hoàn thiện kết cấu cơ sở hạ tầng về CNTT hiện đại, tự động hóa hầu hết các quy trình nghiệp vụ ngân hàng của NHNN, phát triển dịch vụ hậu cần thông minh thông qua việc ứng dụng công nghệ số; Cấu trúc lại hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (IBPS) theo hướng chuyển đổi mô hình từ mô hình phân tán sang mô hình xử lý tập trung tại Trung tâm thanh toán quốc gia (NPSC); Xây dựng và triển khai hệ thống thanh toán bù trừ tự động (ACH); Nghiên cứu, áp dụng các tiêu chuẩn về thanh toán theo thông lệ quốc tế và chuẩn tin điện tài chính quốc tế ISO 20022; Xây dựng chuẩn thẻ chip nội địa và triển khai kế hoạch chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ chip tại Việt Nam;
Đối với các TCTD, cần phát triển những giải pháp CNTT mới, trong đó nhấn mạnh khả tích hợp các công nghệ hiện đại nhưhệ thống cảm biến, hệ thống điều khiển, mạng truyền thông, các ứng dụng kinh doanh và chăm sóc khách hàng;ứng dụng quản trị thông minh AI trong Quản trị quan hệ khách hàng CRM và Quản trị rủi ro Risk Management, quản lý văn bản, kế toán quản trị, quản lý nguồn vốn, quản lý dự án và phân tích hiệu quả đầu tư, quản trị nhân sự; Xây dựng trung tâm chăm sóc khách hàng điện tử; Cổng thông tin điện tử tích hợp các dịch vụ điện tử trên mạng Internet.
(ii) Đẩy mạnh ứng dụngkhoa học phân tích và quản lý dữ liệu: CMCN 4.0 sẽ tạo ra một lượng lớn dữ liệu, theo đó việc thu thập, phân tích và xử lý dữ liệu lớn sẽ tạo ra những tri thức mới, hỗ trợ việc đưa ra quyết định và tạo lợi thế cạnh tranh. Trong thời gian tới, các ngân hàng cần quan tâm đến tư xây dựng trung tâm dự liệu (Data center); nâng cao năng lực xử lý của hệ thống mạng LAN, WAN, thiết bị chuyển mạch;
(iii) Tăng cường ứng dụng điện toán đám mây: Hệ thống mạng dựa trên các giải pháp điện toán đám mây tạo cơ hội tuyệt vời giúp lưu trữ và sử dụng hiệu quả các dữ liệu lớn. Các giải pháp dựa trên đám mây sẽ trở nên ngày càng quan trọng đối với CMCN 4.0 nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Theo đó các ngân hàng cần tận dụng một cách triệt để công nghệ thông tin trên nền tảng điện toán đám mâyđể giải quyết nhanh các nhu cầu phát sinh về tài nguyên CNTT. Đây vừa là giải pháp hỗ trợ để đạt được mục đích vừa là phương tiện hiệu quả giúp gia tăng lợi nhuận.
Hai là, tối ưu hóa mô hình kinh doanh dựa trên nền tảng công nghệ 4.0: Trong một thế giới mà việc nhắn tin qua điện thoại di động, cập nhật trạng thái trên mạng cá nhân, tải một bức ảnh hay sử dụng một ứng dụng phần mềm nào đó được ưa chuộng hơn nhiều với việc đến một chi nhánh ngân hàng thì sự thay đổi không đơn thuần chỉ dừng lại ở việc thay đổi bản sắc, mà là sự thay đổi phương thức hoạt động khi mà các tương tác điện tử đang lấn át các phòng giao dịch truyền thống. CMCN 4.0 sẽ làm đảo lộn mọi thứ, thay đổi phương thức tương tác điển hình và thức tự ưu tiên dành cho các kênh giao dịch trong mối quan hệ hàng ngày giữa khách hàng với các ngân hàng. Theo đó, hoạt động ngân hàng không còn được xác định và xoay quanh một mạng lưới phân phối hữu hình nữa mà là một ngân hàng tương tác thực tế ảo. Chúng ta cần đến dịch vụ ngân hàng chứ không cần đến các ngân hàng. Ngân hàng không còn là một nơi bạn đến, nó là một việc bạn làm.
Bên cạnh việc tối ưu hóa mô hình kinh doanh thông qua việc thiết kế các trải nghiệm trực tuyến cho chính khách hàng; các ngân hàng cần phải phát triển các phương thức thanh toán di động, trong đó có ví điện tử và các giải pháp không dùng thẻ; trang bị và đào tạo các kỹ năng mới cho từng cá nhân cán bộ ngân hàng cũng như cho toàn bộ hệ thống.
Ba là, định hướng xây dựng mô hình chi nhánh hiện đại - giúp tối ưu hóa trải nghiệm của khách hàng - giúp họ tương tác tốt hơn.Việc xây dựng các chi nhánh này chủ yếu dựa vào nền tảng công nghệ tự động hóa, kết nối đa chiều và thông minh hóa của CMCN 4.0. Theo đó, chi nhánh với không gian giao dịch hiện đại, tiện ích, những chỗ ngồi hấp dẫn hợp thời gian, những màn hình tivi/máy tính bảng cỡ lớn giúp khách hàng tự tương tác và trải nghiệm dịch vụ mà không cần đến sự giúp đỡ của giao dịch viên truyền thống. Trên thế giới hiện nay cũng đang chứng kiến ngày càng nhiều việc sử dụng các công nghệ như giao tiếp qua web (web-chat) và Skype. Chẳng hạn như ngân hàng Ubank của Úc là ngân hàng đầu tiên trên thế giới cho phép các cuộc gọi Skype kết nối trực tiếp với Trung tâm ngân hàng 24/7 – được gọi là chương trình trải nghiệm thương hiệu ngân hàng trực tuyến. Ngân hàng này đã tích hợp Skype vào cơ chế hỗ trợ và kết nối khách hàng. Ubank tuyên bố trên trang web của mình rằng "bạn có thể liên hệ với chúng tôi qua Skype từ bất cứ nơi đâu trên thế giới mà không phải mất phí (trừ phí trả cho nhà cung cấp dịch vụ Internet).
Ngoài ra, do khách hàng không còn đến với các chi nhánh nhiều như họ làm 10 năm trước đây và điều này có nghĩa là ngân hàng phải tìm ra một phương thức giao dịch có thể kết nối được với hành vi mới mẻ của một số khách hàng nhưng đồng thời vẫn thỏa mãn được tâm lý của những khách hàng bảo thủ không thay đổi được hành vi của mình, chẳng hạn như mở cửa chi nhánh muộn hơn một chút, kéo dài thời gian hoạt động đến tối để mọi người đi làm về vẫn có chút thời gian đến giao dịch hay việc cho ra đời các quầy ngân hànglưu động tại các sân bay, hội chợ thương mại, triển lãm, các trường đại học … tận dụng lợi thế về vị trí và thời gian hoạt động để cung ứng dịch vụ tới khách hàng.
Bốn là,tăng cường ứng dụng chuỗi cung ứng thông minh: Nguyên lý của CMCN 4.0 là tạo ra một mô hình chuỗi cung ứng mới gắn kết chặt chẽ hơn với nhu cầu của khách hàng. Chuỗi cung ứng mới này sẽ tạo ra một cơ sở dữ liệu duy nhất, làm cho chuỗi cung ứng thông minh hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn ở mọi giai đoạn, từ khi phát sinh nhu cầu cho đến khi bàn giao dịch vụ, sản phẩm. Như vậy, đứng trước kỷ nguyên CMCN 4.0, các ngân hàng trong nước cần nhanh chóng hoạch định chiến lược, tìm kiếm những giải pháp toàn diện cho dịch vụ ngân hàng thông qua sử dụng các dữ liệu thông minh và sự hợp tác với nhiều ngành kinh doanh.
Đặc biệt, cần quan tâm tới tính khả dụng của sản phẩm (là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả mức độ dễ dàng sử dụng của một hệ thống, một sản phẩm hay một giao diện đối với cá nhân/người sử dụng). Điều này bao hàm hàng loạt những nội dung liên quan trong đó có nghệ thuật thiết kế lấy người dùng làm trung tâm (UCD – User centered design), thiết kế tương tác (IxD – interaction design), thử nghiệm tính khả dụng (UT) và những lĩnh vực khác. Khái niệm cơ bản của tính khả dụng là một sản phẩm được thiết kế phù hợp với tâm sinh lý người sử dụng, có nghĩa là một sản phẩm ngân hàng được thiết kế phải (i) Sử dụng hiệu quả hơn – làm tiêu tốn ít thời gian hơn đề hoàn tất một nhiệm vụ cụ thể; (ii) Dễ học cách sử dụng hoặc là một thiết kế mang tính trực giác – người dùng có thể học cách vận hành bằng cách quan sát; (iii) Khiến người dùng thỏa mãn hơn khi sử dụng. Theo đó, các ngân hàng Việt Nam cần hiểu và áp dụng những yếu tố trên vào quá trình thu hút các khách hàng đang tìm kiếm một sản phẩm dịch vụ ngân hàng qua giao diện kỹ thuật số (web, ATM, điện thoại di động, máy tính bảng, ki-ốt, v.v…), qua đó cải thiện tỷ lệ đăng ký sử dụng sản phẩm mới; đồng thời nâng cao tỷ suất lợi nhuận cho khoản đầu tư vào các công nghệ nền tảng của ngân hàng mình. Chẳng hạn như ngân hàng Citibank đã làm được một điều tuyệt vời khi thiết kế lại trang web ngân hàng bán lẻ của mình tại Mỹ để phù hợp với màn hình máy tính bảng. Citibank còn đưa chúng ta đến với dịch vụ ngân hàng trực tuyến mặc định cho các trình duyệt nhỏ được tối ưu hóa cho điện thoại di động.
Năm là, đẩy mạnh bán chéo sản phẩm cho khách hàng hiện tại thông qua dịch vụ ngân hàng điện tử cá nhân và phát triển các thiết bị tự phục vụ. Các ngân hàng trong nước có thể tận dụng lợi thế công nghệ dữ liệu lớn Big data trong việc lưu trữ thông tin khách hàng để bán chéo sản phẩm (bảo hiểm, tư vấn tài chính, chứng khoán…) như các thông tin về số dư tài khoản, các giao dịch chuyển khoản, thanh toán hóa đơn, gửi tiền kỳ hạn… (trong điều kiện có sự đồng ý của khách hàng). Lợi thế của việc quảng cáo sản phẩm sau khi khách hàng đăng nhập vào dịch vụ ngân hàng điện tử là ngân hàng không cần đến các quy trình tuân thủ và tiếp nhận khách hàng bởi mọi thông tin cần thiết đều đã có sẵn, quy trình tuân thủ sẽ chỉ đơn giản dựa trên một cái nhấp chuột, mở rộng dịch vụ dành cho khách hàng hiện hữu chứ không phải những mẫu phiếu phức tạp.
Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng cần quan tâm đến việc phát triển các thiết bị tự phục vụ. Trên thực tế, tốc độ suy giảm số lượng chi nhánh ngân hàng bắt đầu gia tăng từ khoảng giai đoạn 2013-2016 khi hành vi của khách hàng chuyển sang yêu thích các kênh giao dịch kỹ thuật số mà trung tâm là các thiết bị màn hình và điện thoại di động, việc sử dụng ATM cũng vì thế cũng bị ảnh hưởng khi các ngân hàng cố thay thế vị trí của chúng bằng các nền tảng tự phục vụ có nhiều tính năng hơn. Theo đó, thiết bị tự phục vụ sẽ được phát triển theo hai hướng khác nhau: một là, thiết bị phân phối tiền mặt một cách nhanh chóng với hình thức vô cùng đơn giản; Hai là, nền tảng quầy ngân hàng (còn gọi là ki-ốt) như đã nói ở trên với đầy đủ các chức năng vừa có thể phân phối tiền mặt, vừa có tính tương tác cao, có thể phân phối các loại thẻ trả trước, phiếu giảm giá với mục đích tiếp thị, đồng thời tích hợp được với thiết bị di động.
Sáu là, đổi mới quy trình, cách thức cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn phù hợp với những thay đổi tích cực do nền tảng công nghệ sinh học, công nghệ sạch từ CMCN 4.0 mang lại.
Bảy là, chú trọng quản lý an ninh mạng: CMCN 4.0 đã đẩy cao mức độ chia sẻ thông tin từ đó tạo ra một nhu cầu rất lớn về an ninh mạng.Theo đó, các ngân hàng cần đặc biệt quan tâm đến việc xây dựngtrung tâm Dự phòng dữ liệu (Disaster Recovery); nâng cấp hệ thống an ninh, bảo mật ở mức cao, đảm bảo việc mở rộng phạm vi hoạt động (nếu có) được ổn định, an toàn, mang lại hiệu quả lâu dài, đáp ứng. NHNN cần tăng cường các biện pháp đảm bảo an ninh, an toàn cho hệ thống thanh toán quốc gia; phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan chức năng, tăng cường các quy định và biện pháp đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật, phát hiện đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thanh toán thẻ, ATM, POS và các phương thức thanh toán sử dụng công nghệ cao. Bên cạnh đó, NHNN cũng cần giám sát thận trọng luồng tiền phát sinh trong các hoạt động thanh toán xuyên biên giới, thanh toán quốc tế; các phương tiện, dịch vụ thanh toán mới.
Tám là, tiếp tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho việc phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử. NHNN cần thực hiện rà soát, xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý để điều chỉnh tổng thể, bao hàm đầy đủ các dịch vụ công nghệ mới và các nhà cung ứng dịch vụ mới; Hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển các các dịch vụ ngân hàng điện tử;Nghiên cứu phát triển phương tiện thanh toán mới; Xây dựng cơ chế và khuôn khổ pháp lý rõ ràng để cho phép thành lập các tổ chức xử lý bù trừ tập trung các giao dịch thanh toán trên nguyên tắc cạnh tranh, tạo cơ sở phát triển thanh toán trên bề rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán.
Chín là, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực ngành Ngân hàng. Yếu tố con người là then chốt, quyết định đến sự thành công của quá trình xây dựng NHTW hiện đại.Việc đào tạo, quan tâm tới chất lượng nguồn nhân lực công nghệ cao được thực hiện ở cả NHNN và trong toàn bộ hệ thống các TCTD. Các cán bộ nghiệp vụ của NHNN được đào tạo đảm bảo đủ khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, phương thức làm việc tiên tiến, có năng lực đề xuất, tham mưu xây dựng chiến lược, định hướng, chính sách, chế độ, thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, phù hợp với những đòi hỏi của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ CNTTtại các TCTD, có trình độ nghiệp vụ giỏi, tính chuyên nghiệp cao, đáp ứng nhu cầu quản trị vận hành và làm chủ các hệ thống công nghệ hiện đại. Kết hợp đào tạo nâng cao trình độ, khảo sát công nghệ hiện đại trong nước và quốc tế, thực hiện các chế độ đãi ngộ chuyên gia.
3. Kiến nghị
3.1.Để thực hiện được một sốđịnh hướng có tính chất chiến lược của ngành ngân hàng nêu trên, trong thời gian tới, NHNN kiến nghị:
- Phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn 2030 để làm cơ sở triển khai các nhiệm vụ, mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược. Trong đó, có chiến lược bộ phận về phát triển và bảo đảm an ninh hệ thống công nghệ thông tin của ngành ngân hàng;
- Xem xét tăng vốn cho các NHTM nhà nước nắm cổ phần chi phối để tăng năng lực tài chính, bảo đảm đủ mức vốn tự có theo tiêu chuẩn an toàn vốn của Basel II, có điều kiện tăng đầu tư cho CNTT;
- Bộ Tư pháp hỗ trợ NHNN trong việc hoàn thiện cơ sở pháp lý để điều chỉnh tổng thể, bao hàm đầy đủ các dịch vụ công nghệ mới và các nhà cung ứng dịch vụ mới;
- Bộ Ngoại giao và Bộ Kế hoạch và Đầu tư hỗ trợ tăng cường sự hợp tác về lĩnh vực công nghệ với các tổ chức tài chính và ngân hàng trong khu vực và thế giới; Tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật của các nước và tổ chức quốc tế để từng bước nâng cao trình độ công nghệ và ứng dụng CNTT của nền kinh tế nói chung, ngân hàng Việt Nam nói riêng.
3.2. Ở tầmquốc gia, để tận dụng thành công CMCN 4.0 cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước, NHNN kiến nghị:
Một là, Ban Kinh tế Trung ương sớm tham mưu cho Trung ương Đảng có nghị quyết về những Định hướng của đất nước trong việc tiếp cận và tham gia CMCN 4.0 đến năm 2025, tầm nhìn đến 2030 để từ đó Chính phủ cũng như các Bộ/ngành, địa phương quán triệt có Chiến lược, chương trình hành động triển khai thực hiện theo đúng định hướng của Đảng;
Hai là, Chính phủ chỉ đạo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn sớm tổ chức tổng kết, đánh giá kết quả việc thực hiện chuỗi liên kết giá trị nông nghiệp để có hướng đầu tư thích hợp cho việc ứng dụng khoa học trong giai đoạn mới;
Ba là,Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học và Công nghệ cùng phối hợp nghiên cứu bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động của các Quỹ đầu tư phát triển khoa học công nghệ. Trong đó, chú trọng khuyến khích mô hình Quỹ đầu tư mạo hiểm để các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước quản lý;
Bốn là, Bộ Giáo dục nghiên cứu tăng cường giáo dục tiếp cận kiến thức khoa học công nghệ nói chung, CMCN 4.0 nói riêng vào hệ thống giáo dục, nhất là ở cấp giáo đào tạo đại học, cao đẳng, hệ thống trường đào tạo nghề./.
[1] Theo IMF (2015), trung gian tín dụng ngầm (tài chính ngầm) là các tổ chức tài chính tham gia huy động vốn từ những nguồn phi truyền thống (non-core liabilities) như phát hành các loại chứng khoán nợ (debt securities), chứng khoán hóa (securitiezation), sáng tạo tài chính (financial engineering).
[2]Hiện nay, trung bình mỗi ngày, một người dùng khoảng 94 phút để sử dụng các ứng dụng, kiểm tra thư điện tử và nhắn tin khoảng 100 lần; chúng ta đăng nhập vào dịch vụ ngân hàng trên điện thoại di động 20-30 lần và dịch vụ ngân hàng trực tuyến 7-10 lần mỗi tháng, song lại chỉ đến một chi nhánh ngân hàng vài lần mỗi năm.
[3]IoT là mối quan hệ giữa vạn vật (các sản phẩm, dịch vụ, địa điểm, v.v…) và con người thông qua các công nghệ kết nối và các nền tảng khác nhau. Nói cách khác IoT chính là sự kết nối các qui trình sản xuất và các yếu tố sản xuất (con người, máy móc, nguyên nhiên vật liệu) trong môi trường Internet và công nghệ cao.
[4] CMCN lần thứ nhất sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hoá sản xuất; CMCN lần thứ hai sử dụng năng lượng điện để tạo nên nền sản xuất quy mô lớn; CMCN lần thứ ba là cuộc cách mạng kỹ thuật số, sử dụng các thiết bị điện tử, CNTT để tự động hóa hơn nữa quá trình sản xuất.
[5] Các sản phẩm này được xác định thông qua một cuộc khảo sát được tiến hành bởi hội đồng nghị sự toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới, trong đó có hơn 800 giám đốc điều hành và chuyên gia từ các lĩnh vực thông tin và công nghệ truyền thông tham gia.
[6]Blockchain được mô tả như là một "đầu mối phân phối" hay một giao thức an toàn trong đó một mạng các máy tính cùng nhau xác thực một giao dịch trước khi giao dịch được lưu trữ và chấp thuận. Về bản chất,blockchain là một cuốn sổ cái được chia sẻ và mang tính tin cậy. Tại đây, tất cả mọi người đều có thể kiểm tra nội dung nhưng không có một ai có quyền điều khiển. Những người tham gia hệ thống blockchain cùng giữ và cập nhật cuốn sổ cái chung đó. Blockchain chỉ có thể được sửa đổi theo quy định nghiêm ngặt và theo thoả thuận chung của tất cả người tham gia. Vì vậy,đây là phương thức giao dịch có khả năng chia sẻ, lập trình, mã hóa an toàn vàtạo ra sự tin tưởng.
[7] Theo kết quả nghiên cứu của OECD tại Hội thảo "Cuộc cách mạng sản xuất tiếp theo: Ý nghĩa đối với nhà làm chính sách" diễn ra vào ngày 16/6/2016, IOT sẽ giúp giảm 18% chi phí cho các công ty áp dụng. Việc tăng cường sử dụng robot công nghiệp sẽ giúp tăng năng suất lao động bình quân hàng năm lên 0,36 điểm phần trăm (trong số 17 nước OECD); xe vận tải mỏ tự động trong một số trường hợp có thể tăng sản lượng lên 15-20%, giảm mức tiêu thụ nhiên liệu 10-15% và giảm chi phí bảo trì khoảng 8%.
[8] Những dịch vụ như PayPal hoặc e-gold làm cho người dân của một quốc gia dễ dàng quy đổi tiền của mình sang một loại ngoại tệ mạnh hơn.
[9] Theo báo cáo mobile banking được thực hiện bởi KPMG tháng 7/2015, có thể khẳng định mobile banking đang là xu hướng bùng nổ nhất và là kênh lớn nhất chiếm khối lượng giao dịch nhiều nhất. Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều khách hàng chuyển sang sử dụng máy tính, máy tính bảng, điện thoại thông minh để tiến hành các giao dịch với ngân hàng. Đến năm 2020, các ngân hàng sẽ bán sản phẩm của mình với tỷ lệ là 40% online. Internet và điện toán đám mây là xu hướng để giao dịch dễ dàng.
[10] Theo IMF (2015), trung gian tín dụng ngầm (tài chính ngầm) là các tổ chức tài chính tham gia huy động vốn từ những nguồn phi truyền thống (non-core liabilities) như phát hành các loại chứng khoán nợ (debt securities), chứng khoán hóa (securitiezation), sáng tạo tài chính (financial engineering).
[11]Khi điện thoại di động trở thành đồ dùng thiết yếu với mỗi cá nhân, những website thương mại điện tử hay công ty công nghệ đã cho ra đời ví điện tử để giúp người tiêu dùng có thể lưu trữ thông tin cá nhân và mua bán hàng hóa nhanh chóng. Năm 2012, 295 tỷ USD đã được luân chuyển qua thanh toán sử dụng ví điện tử và dự báo sẽ tăng tốc lên 1.600 tỷ USD vào năm 2017.
[12] Google Finance Australia báo cáo rằng 88% số người dùng Internet ở Úc có tìm kiếm các dịch vụ cho vay thế chấp trực tuyến và dành trung bình từ 6 đến 11 tiếng để tìm kiếm các dịch vụ này trước khi lựa chọn một nhà cung cấp tiềm năng và liên hệ với họ.
[13] HSBC đã tiếp tục gặt hái thành công lớn với First Direct (ngân hàng hoạt động qua Internet rất thông dụng tại Anh).
[14]Hiện nay, trung bình mỗi ngày, một người dùng khoảng 94 phút để sử dụng các ứng dụng, kiểm tra thư điện tử và nhắn tin khoảng 100 lần; chúng ta đăng nhập vào dịch vụ ngân hàng trên điện thoại di động 20-30 lần và dịch vụ ngân hàng trực tuyến 7-10 lần mỗi tháng, song lại chỉ đến một chi nhánh ngân hàng vài lần mỗi năm.
[15]Tháng 2/2016, một nhóm hackers đã tấn công và đánh cắp gần 1 tỉ đô la Mỹ từ tài khoản của Ngân hàng trung ương Bangladesh ở Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) chi nhánh New York. Dù đã bị chặn đứng ngay sau đó nhưng 81 triệu đô la Mỹ đã được chuyển tới các tài khoản ngân hàng ở Philippines và sau đó là tới các sòng bạc.
[16]Hệ thống giám sát và cảnh báo rủi ro của ngân hàng này đã phát hiện một điện chuyển tiền gian lận hơn 1 triệu euro (1,13 triệu đô la Mỹ) qua dịch vụ bên thứ ba mà TPBank sử dụng để kết nối với hệ thống điện chuyển tiền toàn cầu SWIFT. Điện chuyển tiền này đã bị ngăn chặn và vụ tấn công không ảnh hưởng đến hệ thống của SWIFT cũng như các giao dịch khác của TPBank với khách hàng. Theo đó, ngân hàng này nhận định có thể phần mềm độc hại (malware) đã được cài đặt vào ứng dụng mà bên thứ ba đã được TPBank thuê để kết nối họ với hệ thống SWIFT với máy chủ đặt ở nước ngoài. Ngay sau đó, TPBank đã chấm dứt hợp đồng và chuyển sang sử dụng hệ thống mới có tính bảo mật cao hơn đồng thời cho phép họ kết nối trực tiếp với SWIFT.
[17] Là cụm từ chỉ những mô hình hoạt động ngân hàng mới nổi lên trong từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế thế giới. Sự biến đổi của các mô hình ngân hàng này xảy ra dưới sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó có sự thay đổi của các xu hướng lớn trong hoạt động kinh tế, nhân khẩu học, và khoa học kỹ thuật.
[18]Bản thân sự phát triển của mô hình ngân hàng kỹ thuật số từ khi ra đời đến nay, cũng trải qua rất nhiều thế hệ từ thế hệ 1.0 đến 4.0 (E- Banking, Tích hợp đa kênh, Bán lẻ đa kênh, Internet vạn vật)