Cơ sở lý luận của việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Xuất phát từ tình hình thực tiễn nước Nga sau khi giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Mười, V.I. Lê-nin không chỉ chỉ ra những vấn đề kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mà còn điểm lại những thành phần trong nền kinh tế nước Nga. Trong các thành phần kinh tế nông dân kiểu gia trưởng; sản xuất hàng hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội, V.I. Lê-nin đặc biệt nhấn mạnh đến kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, coi đây vẫn là một bước tiến to lớn dù cho chúng ta phải trả một khoản lớn hơn hiện nay, vì trả “học phí” là một việc đáng giá, vì cái đó có ích cho công nhân... Để trả lời cho câu hỏi mời tư bản vào có nguy hiểm không, V.I. Lê-nin đã khẳng định:
Thứ nhất, thông qua chế độ tô nhượng, chính quyền nhà nước Xô-viết phát triển lực lượng sản xuất, học tập khoa học - kỹ thuật hiện đại, cách thức quản lý kinh tế hiệu quả của chủ nghĩa tư bản hay các chuyên gia tư sản. Tô nhượng, theo V.I. Lê-nin, là một loại hợp đồng giữa nhà nước và nhà tư bản, là một loại hợp đồng cho thuê mà ở đó nhà tư bản đi thuê tài sản của nhà nước (nhà tư bản ở đây được xác định ở cả hai đối tượng là nhà tư bản trong nước và nước ngoài). Trong liên minh giữa nhà nước vô sản và các nhà tư bản về kinh tế, nhà tư bản kinh doanh theo phương thức tư bản để lấy lợi nhuận, còn chính quyền Xô-viết không chỉ có năng suất lao động xã hội tăng lên, lực lượng sản xuất phát triển, mà còn thu được phần tô (thuế), mà chủ tư bản phải trả do thuê những tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Thông qua hình thức tô nhượng, nhà nước vô sản có thể nhìn thấy được những mặt hạn chế của hợp đồng liên kết này, song nhà nước vô sản sẽ có những điều kiện để phát triển kinh tế cũng như củng cố chính trị. Để có chủ nghĩa xã hội, không thể thiếu kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên những phát minh, sáng chế mới nhất của khoa học hiện đại. Do đó, với nền kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển, chưa qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì việc học tập các chuyên gia tư sản cách thức làm kinh tế, khoa học - kỹ thuật hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động là cần thiết. Cách học tập hiệu quả và thu được kết quả ngay lập tức là liên kết với các nhà tư bản, khuyến khích tư bản trong nước và mời tư bản nước ngoài đến đầu tư trên chính mảnh đất của nhà nước vô sản.
Thứ hai, chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự chuẩn bị những mảnh ghép cho một quan hệ sản xuất mới - quan hệ sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong luận điểm ở trên, V.I. Lê-nin đã chỉ ra sự cần thiết phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước với tư cách là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ. Còn về mặt quan hệ sản xuất, chủ nghĩa tư bản nhà nước cũng không nguy hiểm đối với chính quyền nhà nước vô sản. Bởi chủ nghĩa tư bản nhà nước hay sự liên kết giữa nhà nước vô sản và nhà tư bản là một biện pháp, công cụ để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Sự liên kết này không làm ảnh hưởng đến chế độ chính trị, vì chính quyền nằm trong tay công nhân và nông dân, vì nhà tư bản không trở thành người sở hữu, quyền sở hữu vẫn là của nhà nước. Để bảo đảm chủ nghĩa tư bản nhà nước trở thành một bước đệm trong xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, thì chính quyền vô sản không thể không thực hiện kiểm kê và kiểm soát toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm. Điều đó có nghĩa, sự kết hợp giữa nhà nước vô sản và chủ tư bản như trường hợp hợp đồng tô nhượng được đặt trong sự quản lý của nhà nước và giám sát của giai cấp công nhân, nông dân - những người sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Như vậy, quá trình phân phối cũng sẽ được kiểm soát theo đúng hợp đồng tô nhượng được ký kết. Hay quan hệ sản xuất của nền kinh tế được đi theo đúng hướng để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng lý luận của V.I. Lê-nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước để xem xét những kỳ vọng và thực trạng khi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay
Những luận điểm về phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước của V.I. Lê-nin vẫn còn nguyên giá trị khoa học đến ngày nay. Đặc biệt, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam - một nước bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều hạn chế, khó khăn khi ở một trình độ kinh tế chưa cao thì sự mời gọi, thu hút các chuyên gia tư sản, nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài càng có ý nghĩa quan trọng. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa trở thành một xu hướng, một tất yếu khách quan trong phát triển nền sản xuất hàng hóa tại mỗi quốc gia. Sau gần 40 năm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, xu hướng thu hút FDI tại Việt Nam đã có những thay đổi, chuyển biến theo hướng tích cực, bảo đảm thu hút FDI gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội, song không thu hút FDI bằng mọi giá. Cùng với lựa chọn, thu hút vốn FDI với khoa học - công nghệ hiện đại, Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20-8-2019, của Bộ Chính trị, “Về định hướng, hoàn thiện thể chế, chính sách nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030” chỉ rõ, chủ động thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Cùng với đó, Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg, ngày 1-10-2021, “Phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050”, nhằm định hướng thu hút “FDI xanh” tại Việt Nam trong thời gian tới. Do đó, khi thu hút nguồn vốn FDI, Việt Nam kỳ vọng không chỉ phát triển lực lượng sản xuất, mà còn bảo đảm quan hệ sản xuất phù hợp trình độ của lực lượng sản xuất, tích lũy những tiền đề cần thiết để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu, kỳ vọng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Thứ nhất, phát triển lực lượng sản xuất. Kỳ vọng thu hút FDI để thúc đẩy quá trình hiện đại hóa lực lượng sản xuất thể hiện ở việc bảo đảm các nguồn thu từ thuế của doanh nghiệp FDI; học tập, tiếp thu được các giá trị tri thức; giải quyết vấn đề lao động, việc làm; phát triển hàng hóa. Cụ thể:
Về thuế, V.I.Lê-nin nhấn mạnh, tô nhượng như một loại hợp đồng ký kết, ở đó, nhà tư bản thuê lại các tài sản của nhà nước và trả tiền cho việc thuê lại các tài sản đó. Doanh nghiệp FDI tại một quốc gia sẽ đóng góp vào ngân sách quốc gia đó các khoản thuê tư liệu sản xuất, như đất đai, tiền thuế theo quy định pháp luật thuế. Với vị trí là mắt xích ngày càng quan trọng hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu, khu vực và độ mở thương mại lớn, Việt Nam có lợi thế trong thu hút nguồn vốn FDI.
Về lao động, việc làm, cùng với thuế, thu hút FDI cũng là mục tiêu để giúp Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển nói chung giải quyết vấn đề lao động, việc làm. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp được các nhà tư bản nước ngoài mang đến nước khác thường phụ thuộc vào nước nhận tư bản ở hai yếu tố: đất đai và lao động. Doanh nghiệp FDI càng phát triển, quy mô lớn thì càng tạo ra nhiều việc làm tại nước mà họ đầu tư.
Về các giá trị tri thức, không chỉ đóng góp cho ngân sách quốc gia tiền thuế, thuê đất và các nghĩa vụ tài chính khác, mà doanh nghiệp FDI còn được kỳ vọng sẽ mang đến khoa học - công nghệ hiện đại. Với nền đại công nghiệp đã phát triển và dần bước sang thời kỳ hậu công nghiệp, chuyên gia tư sản nước ngoài thường trả lời cho câu hỏi “sản xuất như thế nào” bằng khoa học - công nghệ hiện đại. Do đó, với việc cho thuê tư liệu sản xuất, “quan sát” những chuyên gia tư sản nước ngoài này tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý trên chính quốc gia mình, những nước thu hút FDI như Việt Nam kỳ vọng không chỉ tiếp cận, mà còn dần làm chủ khoa học - công nghệ, quay lại cải tiến năng suất lao động của chính mình, gia tăng năng lực nội sinh của nền kinh tế, tiến đến giảm thiểu phụ thuộc vào sự hiện diện của doanh nghiệp FDI.
Về hàng hóa, thu hút FDI trong giai đoạn hiện nay được kỳ vọng sẽ góp phần xây dựng một thị trường với nhiều hàng hóa đa dạng, phong phú hơn và cao hơn nữa là nền sản xuất trong nước sẽ phát triển khi trở thành nơi cung cấp những sản phẩm hỗ trợ cho ngành công nghiệp mà doanh nghiệp FDI mang tới.
Thứ hai, xây dựng quan hệ sản xuất. V.I. Lê-nin nhiều lần đề cập đến những đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó chủ nghĩa tư bản là mảnh ghép không thể tránh khỏi, là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi. Do đó, những quan hệ sản xuất chủ nghĩa tư bản mặc dù không giữ địa vị thống trị, nhưng cũng không thể ngay lập tức mất đi, trái lại, nó còn là kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất ở mức thấp, trung bình.
Chúng ta kỳ vọng học hỏi từ chuyên gia nước ngoài cách thức tổ chức, quản lý, phân phối kết quả lao động phù hợp để khơi dậy sự sáng tạo và động lực làm việc của người lao động. Thông qua cách họ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ phát minh, sáng chế, thu hút người lao động sản xuất hàng hóa với giá trị cá biệt thấp hơn nhiều so với giá trị chung của toàn xã hội, những nhà quản lý nhà nước, chủ thể kinh tế tại các nước đang phát triển có thể học tập những cách thức sáng tạo ấy trên nền tảng mục tiêu xã hội xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, tôn trọng sở hữu tư nhân (trong khi sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về sở hữu nhà nước) là một bước tạm thời và cần thiết để các nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam tận dụng được sức mạnh của thời đại, tham gia hội nhập quốc tế sâu rộng, tích lũy tiền đề vật chất cho xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam hiện nay
Những kỳ vọng khi đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư FDI vào nước ta không chỉ xuất phát từ cơ sở lý luận giàu giá trị khoa học của V.I. Lê-nin, mà còn từ thực tiễn gần 40 năm đổi mới của Việt Nam. Bên cạnh kết quả đạt được, giữa kỳ vọng và thực tế thu hút FDI của nước ta cũng còn những khoảng cách và vấn đề đặt ra.
Thứ nhất, tình trạng chuyển giá, trốn thuế từ doanh nghiệp FDI là vấn đề lớn của các nước đang phát triển, Việt Nam cũng không ngoại lệ. Giai đoạn 2012 - 2022, tỷ lệ doanh nghiệp FDI báo lỗ tương đối cao, thời điểm trước đại dịch COVID-19, tỷ lệ doanh nghiệp báo lỗ cao nhất là năm 2017 với 37,91%, năm 2021 là 47,09%, năm 2022 là 56%(1). Doanh nghiệp FDI báo lỗ làm giảm nguồn thu ngân sách nhà nước, doanh nghiệp FDI “lỗ giả lãi thật” làm thất thu thuế, thất thu ngân sách nhà nước. Bằng các hoạt động mua nguyên liệu, công nghệ, thương hiệu từ công ty mẹ (đối với công ty đa quốc gia) với giá cao, chi phí sản xuất hằng năm của doanh nghiệp FDI tại nước ta bị đẩy lên cao khiến các doanh nghiệp này luôn trong tình trạng thua lỗ. Hoặc thông qua hoạt động mở thêm cơ sở, chi nhánh ở nhiều địa phương để hưởng nguồn lợi từ thuế (trước khi Luật Quản lý Thuế năm 2019 có hiệu lực) cũng là hình thức né tránh nghĩa vụ thuế của một số doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. Như vậy, việc thu tô nhượng, thu thuế từ các nhà tư bản để phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn nền kinh tế ở trình độ chưa cao của Việt Nam dường như chưa đạt được như kỳ vọng.
Thứ hai, việc doanh nghiệp FDI sử dụng chủ yếu là người lao động có trình độ thấp đặt ra nhiều vấn đề kinh tế, xã hội cho Việt Nam trong tương lai gần. Với quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, trình độ khoa học - công nghệ lạc hậu, chi phí sản xuất của nền kinh tế Việt Nam cao, tuy nhiên lại có sức hút nguồn vốn FDI lớn so với các nước trong khu vực do có nguồn lao động trình độ thấp, giá rẻ. Hiện nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở nước ta (từ đào tạo nghề trở lên) chỉ đạt 26,1%. Trong cơ cấu phân bố doanh nghiệp FDI, những ngành chiếm tỷ trọng lớn là các ngành may mặc, giày da, chế biến nhựa, cao-su... đều thâm dụng lao động, đặc biệt là người lao động có trình độ thấp. Những người lao động này khó có thể sử dụng được chuyên môn, kỹ thuật nếu không tiếp tục lao động tại doanh nghiệp do tính chất chuyên môn hóa và đặc thù trong mỗi dây chuyền sản xuất. Như vậy, trình độ của người lao động trong các khu vực FDI cơ bản không có sự thay đổi, hay được nâng cao. Bên cạnh đó, mặc dù khu vực FDI góp phần không nhỏ trong nâng cao thu nhập cho người lao động. Song do năng suất lao động Việt Nam tương đối thấp, nên mức tiền lương được doanh nghiệp FDI trả cho người lao động Việt Nam cũng không cao.
Mặt khác, với áp lực, cường độ lao động lớn, người lao động tại khu chế xuất, khu công nghiệp ở độ tuổi từ 35 đến 40 tuổi chưa qua đào tạo, không có hoặc có ít tư liệu sản xuất sẽ trở thành vấn đề kinh tế, xã hội của Việt Nam khi không còn đáp ứng được yêu cầu về sức khỏe lao động của doanh nghiệp FDI. Giải quyết việc làm cho lực lượng lao động này đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức, đặc biệt trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ làm cho nhiều ngành, nghề thủ công mất đi, người lao động cần có trình độ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của việc sử dụng, vận hành các máy móc kỹ thuật.
Thứ ba, tiếp thu, học hỏi khoa học - công nghệ của doanh nghiệp FDI hay chuyên gia tư sản chưa mang lại kết quả như kỳ vọng. Sau hơn 30 năm kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực, khoa học - công nghệ mà các doanh nghiệp, chủ thể kinh tế Việt Nam tiếp thu, cải biến và sáng tạo từ doanh nghiệp FDI nhìn chung chưa tạo được cú huých, thúc đẩy sự phát triển khoa học - công nghệ nói riêng, kinh tế Việt Nam nói chung. Điều này một phần do doanh nghiệp FDI tại Việt Nam chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ theo cả tiêu chí vốn, lao động và doanh thu, do đó công nghệ, kỹ thuật của các doanh nghiệp này cũng chỉ đạt ở mức cao hơn so với trình độ công nghệ của Việt Nam. Mặt khác, doanh nghiệp FDI tại Việt Nam chủ yếu đầu tư vào những lĩnh vực thâm dụng lao động, lĩnh vực sử dụng máy móc hiện đại lại không phải là yếu tố được chú trọng hàng đầu. Và nếu doanh nghiệp FDI có công nghệ hiện đại thì những ràng buộc để họ chuyển giao công nghệ cũng tương đối khó khăn vì liên quan đến bản quyền, ký kết hợp đồng đầu tư...
Thứ tư, chúng ta kỳ vọng vào việc cung cấp các hàng hóa phụ trợ cho doanh nghiệp FDI của doanh nghiệp trong nước và thị trường hàng hóa đa dạng, phong phú hơn. Xét về khía cạnh hàng hóa phụ trợ, năm 2022 là năm mà số lượng doanh nghiệp FDI sử dụng hàng hóa dịch vụ đầu vào cung ứng bởi doanh nghiệp khu vực tư nhân Việt Nam cao nhất từ năm 2012 cũng mới chỉ đạt 63,3%(2). Trong 63,3% doanh nghiệp này, việc sử dụng hàng hóa đầu vào cũng vẫn chủ yếu từ công ty mẹ, tỷ lệ hàng hóa đầu vào của Việt Nam không lớn trong tổng sản lượng hàng hóa đầu vào của các doanh nghiệp FDI này.
Thứ năm, trong quan hệ sản xuất, bên cạnh việc học tập những phương thức, kỹ thuật quản lý tổ chức, nhân lực của doanh nghiệp FDI, những mặt trái trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng đang dần tác động đến tổ chức, quản lý trong doanh nghiệp khu vực tư nhân Việt Nam, đặc biệt là trong khâu phân phối. Doanh nghiệp nước ngoài xuất khẩu tư bản sang Việt Nam, mang theo quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, với giá trị thặng dư thuộc về giới chủ. Quan hệ sản xuất này tuy không trở thành quan hệ sản xuất thống trị của nền kinh tế nước ta, song thực trạng phân phối giá trị thặng dư, kết quả lao động trong doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp khu vực tư nhân Việt Nam đặt ra các vấn đề, như tình trạng bóc lột, bất bình đẳng xã hội... Đây cũng chính là những nội dung các thế lực thù địch thường xuyên xoáy sâu để xuyên tạc về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Một số hàm ý chính sách
Từ cơ sở lý luận và một số vấn đề đặt ra trong thu hút FDI tại nước ta hiện nay, để nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự trở thành nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng cơ sở vật chất cho xã hội xã hội chủ nghĩa thì cần chú trọng một số nội dung sau:
Một là, bảo đảm thực hiện hiệu quả luật thuế quốc gia, quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu (Luật Quản lý Thuế năm 2019; Nghị định số 132/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết; Quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu (có hiệu lực năm 2024) hướng tới siết chặt quản lý thuế, điều chỉnh các quy định về tái đầu tư, chống chuyển giá, trốn thuế của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp FDI nói riêng). Cần thực hiện nghiêm túc và đồng thời tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh pháp luật thuế để qua đó, việc thu “tô nhượng” của các nhà tư bản nước ngoài không bị thất thoát, góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội xã hội chủ nghĩa.
Hai là, cần có chính sách phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực được đào tạo, có trình độ cao. Người lao động cần có một trình độ nhất định để thực sự học tập được kỹ thuật, ý thức kỷ luật, thái độ lao động từ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong doanh nghiệp FDI. Nguồn lao động giá rẻ, trình độ thấp sẽ không còn là lợi thế của Việt Nam trong tương lai gần khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra ngày càng mạnh mẽ với những máy móc hiện đại thay thế lao động thủ công. Mặt khác, nếu chỉ dựa vào nguồn lao động trình độ thấp để thu hút FDI thì việc thông qua thành tựu của chủ nghĩa tư bản nhà nước để nâng cao trình độ, kỹ thuật lao động trong nước khó có thể đạt được. Do đó, việc tăng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề cần được chú trọng và thực hiện một cách hiệu quả, coi đây là chiến lược thu hút FDI và cũng là điều kiện để người lao động Việt Nam lĩnh hội được tri thức từ chuyên môn đến tác phong công nghiệp trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại.
Ba là, trong thu hút FDI cần có sự lựa chọn công nghệ phù hợp, tránh tình trạng thu hút FDI bằng mọi giá, bất chấp công nghệ lạc hậu. Với một nước đang phát triển như Việt Nam, việc lựa chọn công nghệ trong thu hút FDI không phải là việc dễ dàng, đặc biệt là trong bối cảnh tỷ lệ lao động qua đào tạo của nước ta còn chưa cao. Song, điều đó không có nghĩa là bất cứ công nghệ nào chúng ta cũng sẵn sàng đón nhận từ FDI. Cần tiếp tục có sự phân loại và lựa chọn công nghệ phù hợp với trình độ lao động, khoa học - công nghệ trong nước.
Bốn là, nghiên cứu xây dựng các cam kết sử dụng hàng hóa, nguyên liệu Việt Nam để phát triển công nghiệp phụ trợ. Việt Nam cần “khéo léo” lồng ghép các điều khoản sử dụng nguyên liệu trong nước vào hợp đồng với doanh nghiệp FDI. Bên cạnh đó, để doanh nghiệp FDI sử dụng nguyên liệu, hàng hóa của Việt Nam, chúng ta cũng cần xây dựng, hoàn thiện thị trường hàng hóa, nguyên liệu đầu vào với chất lượng, số lượng bảo đảm theo tiêu chuẩn quốc tế./.
------------------------
(1) VCCI: Báo cáo thường niên Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) từ năm 2012 đến 2022
(2) PCI 2022: “Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam, đánh giá chất lượng điều hành kinh tế để thúc đẩy phát triển doanh nghiệp”, ấn phẩm chào mừng 60 năm ngày thành lập Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (1963 - 2023)
PGS, TS BÙI VĂN HUYỀN - PHẠM THỊ BẢO THOA
Viện trưởng Viện Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Trường Chính trị Tô Hiệu
Theo Tạp chí Cộng sản