Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Phạm Hùng trong một lần xuống thăm Trạm sản xuất thử, thuộc Tổng Công ty Imexco - Sở Ngoại thương TP.HCM (bìa trái là ông Nguyễn Văn Lãng). Ảnh tư liệu từ Gia đình ông Lãng cung cấp.
Sự chuyển mình của thành phố mang tên Bác
Ngày 30-4-1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Non sông liền một dải. Sài Gòn, Thủ đô của Việt Nam cộng hòa giờ đây mang tên mới – thành phố mang tên Bác - Thành phố Hồ Chí Minh. Đất nước Việt Nam từ nay hoàn toàn độc lập, dân tộc Việt Nam từ nay hoàn toàn tự do. "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", mong ước của Bác Hồ nay đã thành sự thật.
Tuy nhiên TPHCM phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn. Chỉ nói riêng về Thành phố Hồ Chí Minh, nền công nghiệp "đói" nguyên liệu nhập cảng, công nhân lành nghề dần dần thiếu việc làm. Từ ăn lương 70% để chờ đợi đến bỏ nhà máy đi nơi khác. Gay go nhất là đội ngũ lao động trí thức. Nhiều người có sẵn nghề "tay trái" thì còn tạm đủ sống. Những người chỉ quen sống cuộc đời viên chức dưới chế độ cũ thì đời sống cực kỳ chật vật. Nạn thất nghiệp gia tăng đột biến. Toàn bộ hệ thống cây bơm phân phối xăng dầu tê liệt. Thời đó, xăng dầu thường được chứa" vào thùng phuy với máy lắc tay, phân phối thủ công, hạn chế. Xe mỗi khi đi đường xa phải mang theo lượng xăng dầu cần thiết. Tình trạng thiếu lốp, thiếu phụ tùng gây tác hại không nhỏ đối với lưu thông, phân phối, dẫn tới các hậu quả "dây chuyền".
Nhịp sống của Thành phố Hồ Chí Minh mấy năm đầu sau giải phóng gần như chựng lại. Xã hội đô thị đông đảo nhất ở phía Nam đòi hỏi rất nhiều điều kiện khác nữa mới có thể ổn định dưới chế độ mới. Không thể kể hết các xáo trộn xã hội, kinh tế tại thời gian bản lề đầy thử thách này. Đặc biệt là nạn khan hiếm các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu nhất song song với tình trạng lưu thông, phân phối gạo, heo, cá... cực kỳ khó khăn bắt nguồn từ miền Tây Nam Bộ. Hệ thống y dược cực kỳ bi đát. Thuốc men bỏ hệ thống nhà thuốc tây bày bán trên lề đường trong khi các bệnh viện lại thiếu hụt trầm trọng, lắm khi phải sử dụng thuốc quá "đát" hết (hạn sử dụng). Trẻ em, người già khó mua được hộp sữa đặc có đường.
Bao nhiêu bài toán cụ thể đòi hỏi giải đáp tức thời. Đó là nỗi canh cánh bên lòng của các đồng chí lãnh đạo thành phố như đồng chí Mười Cúc (tức đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Thành uỷ lúc bấy giờ), đồng chí Sáu Dân (tức đồng chí Võ Văn Kiệt, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân đầu tiên của Thành phố Hồ Chí Minh) và đó cũng là ưu tư hàng đầu của đồng chí Phạm Hùng.
Trong thời điểm đó, anh Hai Hùng (Bí danh của đồng chí Phạm Hùng) đã sớm có nhiều quyết định đúng đắn, quyết liệt như quyết định về việc sử dụng ôtô con của Nhà nước phải đúng mục đích công tác cách mạng, không được lợi dụng tài sản của Nhà nước làm việc riêng. Anh Hai Hùng cũng là người luôn mạnh mẽ hô hào thực hành tiết kiệm, lấy chính bản thân mình là tấm gương phấn đấu không mệt mỏi. Một trong những việc lớn mà anh Hai Hùng đã làm được là phát triển nông nghiệp của Thành phố Hồ Chí Minh.
Đó là thời kỳ mà ngoại tệ mạnh cực kỳ khan hiếm, hàng nhập khẩu gần như không có do Mỹ không những không bồi thường chiến tranh mà còn cấm vận, bao vây kinh tế lâu dài. Từ sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, anh Hai Hùng đã có một thời gian dài gánh vác công tác chính quyền (Phó Thủ tướng) và công tác tài chính - mậu dịch cho nên anh luôn có tầm nhìn xa trông rộng.
Thời điểm ấy, đồng chí Nguyễn Văn Phi (Mười Phi) - Tổng Cục trưởng lương thực miền Nam, sau đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại thương kiêm Giám đốc Sở Ngoại thương Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên Ủy ban nhân dân thành phố , đặc trách khối kinh tế đối ngoại là người luôn sát cánh với anh Hai Hùng . Ban đầu anh Mười Phi từ chối làm Tổng Cục trưởng lương thực miền Nam trực thuộc Tổng Công ty lúa gạo miền Nam bởi anh không thuộc thành phần nông dân, không hề "thuộc bài" cây lúa với mảnh ruộng. Nhưng anh Hai Hùng đã đề nghị anh Mười Phi nhận nhiệm vụ bởi anh Mười đã quen công tác tài chính trong chiến tranh chống Mỹ. Anh Hai Hùng chỉ ra một điều kiện: Tính sao thì tính, không được kinh doanh gạo lấy lãi mà chỉ hoà vốn thôi. Dân vừa được giải phóng còn nghèo. Còn cái sự không “thuộc bài” về cây lúa thì anh Mười Phi phải làm một học trò nhỏ trong quan hệ với các cấp ủy khu và tỉnh, với lão nông các địa phương.
Thế là suốt những năm 1975 và 1976, anh Hai Hùng dẫn đầu đoàn công tác lương thực, có chương trình hằng tháng đến khắp các tỉnh miền Nam để nghe báo cáo, giải quyết tại chỗ các khó khăn có liên quan đến hạt gạo, cây lúa... mà khu ủy và tỉnh cùng với Ủy ban nhân dân các tỉnh nêu ra.
Ngày giờ mà anh hẹn trước với các tỉnh miền Nam được quy định rất chặt chẽ. Anh không chấp nhận bất cứ lý do gì dẫn tới chậm trễ. Anh chỉ dùng hai xe con: một xe anh đi và một xe bảo vệ. Theo sau anh, có các xe chở thủ trưởng các ban ngành có thẩm quyền quyết định mọi việc ngay tại chỗ.
Có một điều rất đặc biệt: anh không bao giờ chấp nhận có xe cảnh sát hộ tống dẫn đường và đoạn hậu, nhất là còi hú inh ỏi rầm rộ dọc đường. Anh yêu cầu xe anh Mười Phi đi đầu dẫn đường, kế đó là hai xe của anh. Hai xe phải cùng tốc độ. Anh Mười Phi phải thuộc đường đi nước bước, phải nắm chắc chương trình đối với từng tỉnh. Vượt sông qua phà đến các tỉnh Khu 8 và Khu 9 thì đã có chỉ thị của anh Hai Hùng nên các Ủy ban nhân dân bố trí sẵn phà đón và đưa đúng giờ quy định.
Anh nổi tiếng về tính nghiêm khắc và giờ giấc. Nhờ thế mà anh đảm bảo hoàn thành một khối lượng lớn công việc và rất đúng hạn đối với các cấp cơ quan và Đảng bộ địa phương. Luôn giải quyết cụ thể, dứt điểm và kiểm tra rất chặt chẽ là hai đặc tính của anh Hai Hùng trong công tác lương thực hồi đó. Công tác lương thực lúc bây giờ là một công tác tự nguyện cống hiến tận lực, không vì lợi nhuận, ai cũng muốn an dân dưới chính thể mới khi mà chính quyền cách mạng miền Nam vừa mới thành công.
Các đồng chí lãnh đạo khu và tỉnh vừa được anh chủ trì gỡ rối tại chỗ, vừa được anh khích lệ. Ai cũng hài lòng và thoải mái giải quyết những công việc khó khăn trong không khí gần gũi thân mật. Quá thông cảm với nỗi lo ấy của một Phó Thủ tướng làm việc không mệt mỏi, chủ và khách gặp nhau hằng tháng đều vui vẻ dù việc sắp xếp bộ máy chính quyền còn ngổn ngang.
Đồng chí Phạm Hùng và Tài khoản 9946 tại Ngân hàng Ngoại thương thành phố
Sau giải phóng, nguồn ngoại tệ của thành phố gần như cạn kiệt, đồng đôla Mỹ tiền mặt trôi nổi chủ yếu năm trong tay ngoại kiều còn lưu lại Sài Gòn và trong thân nhân của người Việt Nam ở nước ngoài. Đó là đặc điểm của chế độ Mỹ - Thiệu, lạm phát phi mã, đồng tiền Sài Gòn phải "trốn" vào vàng và mỹ kim. Những ai giàu có thì cố gửi tài sản của mình quy ra vàng và mỹ kim.
Để có nguồn ngoại tệ, Sở Ngoại thương thành phố định hướng cho các công ty xuất nhập khẩu trực thuộc, cho ngành du lịch và cung ứng tàu biển thành phố phải tìm cách nào đó kinh doanh nhằm thu hồi luồng ngoại tệ mạnh có sẵn vốn tập trung tại những ngành này. Đầu tiên là thành lập cửa hàng tiêu dùng dành riêng cho người nước ngoài. Rồi đến Nhà triển lãm Diên Hồng kèm theo cửa hàng lưu niệm, đáp ứng nhu cầu đối với khách nước ngoài.
Muốn thu được mỹ kim thì phải có hàng tiêu dùng hấp dẫn. Khi thành phố chưa sản xuất ra được hàng tiêu dùng có chất lượng cao thì phải được phép nhập cảng loại hàng đó. Đối với dân ta lúc đó, những mặt hàng này là xa xỉ phẩm nhưng với ngoại kiều thì lại là những mặt hàng họ thường xuyên sử dụng.Ví dụ, cán bộ, quân giải phóng thì thường dùng thuốc lá APĐ (bao đỏ, con két trắng) từ Campuchia tràn vào thị trường miền Nam. Còn ngoại kiều, dân trung lưu thì thích bao thuốc lá 3 số 5 (555) là loại thuốc lá cao cấp hơn nhưng rất khan hiếm.
Nền kinh tế thành phố hồi đó cần có gấp một quỹ ngoại tệ 20 triệu USD bởi khi có mỹ kim trong tay thì không phải khó chọc thủng bao vây kinh tế của Mỹ. Với định hướng đó, anh Mười Phi xin phép anh Hai Hùng cho nhập cảng ba chuyến thuốc lá 555 của Xingapo và một số mặt hàng tiêu dùng khác nữa để cung cấp cho các cửa hàng dành cho người nước ngoài bán thu ngoại tệ trôi nổi.
Anh Hai Hùng chấp nhận đề nghị này nhưng yêu cầu nhiệm vụ này phải được kiểm soát nghiêm ngặt.Thế là thành phố có nhanh một quỹ 20 triệu mỹ kim, giao Ngân hàng Ngoại thương thành phố quản lý bằng tài khoản 9946.
Từ kinh nghiệm đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu cho phép sử dụng quỹ ngoại tệ này để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu và các mặt hàng tiêu dùng cấp thiết nhất để duy trì nền sản xuất công nghiệp cũng như phục vụ đời sống của nhân dân thành phố. Thậm chí thành phố còn cho một số tỉnh vay không lãi.Quỹ hàng hóa nhập cảng đối lưu của thành phố ra đời từ đó phục vụ đắc lực cho sự liên doanh, liên kết giữa thành phố và các tỉnh. Từ mối quan hệ liên doanh, liên kết đó, các tỉnh dần dần tự xây dựng cơ sở sản xuất tại địa phương, rồi chế biến, phân phối thành phẩm chứ không chỉ bán nguyên liệu thô như trước nữa.
Nhớ lại những ngày đầu gian nan ấy, từ việc tạo ra đốm lửa nhỏ để tạo quỹ ngoại tệ tự có của thành phố - 20 triệu USD - là nguồn vốn cực kỳ giá trị trong ngày đầu gian khó đó, có thể nói đây là một quyết định "táo bạo" của anh Hai Hùng nhằm cấp cứu kịp thời nền kinh tế non nớt của thành phố những ngày đầu giải phóng! Những quyết định kịp thời, sáng suốt này chứng tỏ sự thông cảm, hiểu biết sâu sắc của anh Hai Hùng đối với xã hội Sài Gòn sau giải phóng, hết sức phức tạp - một đô thị lớn nhất nước đang phải sống trong một nền kinh tế thiếu dưỡng khí, chất chứa nhiều khả năng bùng nổ chính trị. Hơn ai hết, anh Hai Hùng hiểu thiếu thôn kinh tế kéo dài sẽ dẫn đến khủng hoảng xã hội và có thể lót đường cho bùng nổ chính trị.
Nhưng cũng chính tài khoản 9946 này dẫn tới sự "tranh chấp" đương nhiên giữa hai hệ thống công ty cấp 1 và cấp 2 trong nội thất ngành ngoại thương Việt Nam. Hồi đó chỉ hệ thống Tổng Công ty xuất nhập khẩu trự thuộc Bộ Ngoại thương mới có quyền giao dịch trực tiếp nước ngoài để trực tiếp xuất nhập khẩu (cấp 1). Còn ngành ngoại thương của thành phố và tỉnh chỉ làm nhiệm vụ vệ tinh, cung ứng nguồn hàng xuất khẩu, ủy thác cho cấp 1, xuất nhập khẩu cho mình mà thôi.
Lúc bấy giờ anh Mười Phi vừa đại diện cho Bộ Ngoại thương, vừa đại diện cho Ủy ban nhân dân thành phố và Sở Ngoại thương thành phố. Anh Mười Phi thay mặt Bộ Ngoại thương ở phía Nam, được quyền ký giấy phép xuất nhập khẩu. Từ đó, thành phố đã yêu cầu Bộ Ngoại thương cho phép Sở Ngoại thương thành phố thành lập một công ty xuất nhập khẩu trực tiếp y như cấp 1 sau khi thành phố đã có quỹ ngoại tệ tự có rồi.
Với cuộc đấu tranh nội bộ này, Công ty xuất nhập khẩu thành phố được phép thành lập (IMEX SAIGON Import - Export Saigon). Lôgô của nó là chợ Bến Thành. Đó cũng là thời điểm mà Bộ Ngoại thương lấy lại quyền ký giấy phép xuất nhập khẩu.Ngay sau khi anh Mười Phi thôi làm công tác ngoại thương, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng lại giao anh Mười Phi nhiệm vụ mới: xây dựng Hội chợ Quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Có thể nói rằng, nếu không có đồng chí Phạm Hùng chỉ đạo quyết liệt, đầy ắp tình người, nhưng luôn sát cánh, luôn tin tưởng, động viên cán bộ thì khó có thể đưa Thành phố Hồ Chí Minh vượt qua được những khó khăn, gian nan của những ngày đầu giải phóng.
Cẩm Tú
(Tổng hợp từ cuốn sách:
PHẠM HÙNG – người cộng sản trung kiên, nhà lãnh đạo có uy tín lớn)