Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2021), kinhtetrunguong.vn trân trọng giới thiệu một số bài viết về Người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của toàn Đảng, toàn dân ta, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cuộc đời hoạt động vô cùng trong sáng và đẹp đẽ, vô cùng phong phú và sôi động của Người đã trở thành biểu tượng của lương tâm và khí phách con người Việt Nam. Trong công việc và cuộc sống đời thường, Hồ Chí Minh cũng là một tấm gương mẫu mực về tính kỷ luật, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình trên tinh thần đồng chí thương yêu lẫn nhau.
Sau 10 năm tham gia vào cuộc sống lao động và phong trào đấu tranh của quần chúng ở châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, Người đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường cứu dân, cứu nước. Từ đó, Người hiến dâng toàn bộ thời gian, sức lực và trí tuệ phấn đấu cho lý tưởng cao đẹp là sự nghiệp đấu tranh để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Từ sự hiểu biết sâu sắc về truyền thống yêu nước Việt Nam, vốn kiến thức phong phú về văn hóa phương Đông, Người tiếp thu những tinh hoa của nền văn hóa phương Tây và đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đỉnh cao của trí tuệ nhân loại. Và cũng chính vì vậy mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin một cách có chọn lọc để vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Từ đó, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Người luôn kiên quyết đấu tranh cho quan điểm đúng đắn của mình cả về chiến lược và phương pháp cách mạng, về lý luận và chỉ đạo thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng.
Một trong những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam từ buổi đầu thành lập Đảng là giải quyết đúng đắn, hợp lý mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp để đem lại hiệu quả cao nhất cho phong trào cách mạng.
Nhờ hiểu rõ tình hình và đặc điểm dân tộc và giai cấp ở Đông Dương, Hồ Chí Minh đã chủ trương giải quyết hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ theo kiểu riêng của Đông Dương, với bước đi và cách làm phù hợp. Nhưng sau khi bộc lộ quan điểm ấy và không được Quốc tế Cộng sản chấp nhận, Người đã thể hiện tính tổ chức và tính kỷ luật cao trước Quốc tế Cộng sản, mà thể hiện cao nhất là với cương vị chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10-1930. Hồ Chí Minh đã tán thành Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí Trần Phú khởi thảo, tán thành án nghị quyết của Trung ương toàn thể Hội nghị, cho dù Luận cương và án nghị quyết ấy phủ nhận những văn bản mà Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua. Thậm chí sau đó 6 tháng, vào tháng 4-1931, Hồ Chí Minh còn có thư phê bình Xứ ủy Trung Kỳ chưa chịu đổi tên Đảng theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản.
Thực tế nghiệt ngã của cuộc đấu tranh và nhất là trước nguy cơ của một cuộc chiến tranh phát xít ngày một tới gần, Quốc tế Cộng sản và những người Cộng sản Việt Nam đã dần dần nhận ra chân lý. Từ tháng 10-1936, những văn kiện của Đảng Cộng sản Đông Dương đã tiếp cận được với tư tưởng Hồ Chí Minh, và tới Hội nghị Trung ương 8 tháng 5-1941, tư tưởng Hồ Chí Minh và nhận thức của Trung ương Đảng đã hoàn toàn thống nhất.
Nhờ bản lĩnh chính trị vững vàng và tính tổ chức kỷ luật mà Hồ Chí Minh đã đứng vững và vượt qua được thời kỳ gian truân ấy, thời kỳ mà chính Người đã phải sống trong tình trạng "không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, bên ngoài của Đảng".
Sau này, khi trở thành người lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Hồ Chí Minh vẫn luôn luôn gương mẫu chấp hành pháp lệnh Nhà nước và kỷ luật của tổ chức, đồng thời yêu cầu cán bộ các cấp phải rèn luyện để thực sự trở thành công bộc, thành đày tớ của nhân dân.
Mấy năm trở lại đây, Quốc hội nước ta thông qua nhiều đạo luật, thể chế hóa quyền dân chủ bằng pháp luật để thay thế cho các sắc lệnh. Trước thành tựu ấy, lại có người cho rằng sinh thời Hồ Chí Minh chỉ chăm lo đức trị mà ít chú ý pháp trị. Chúng tôi không tán thành ý kiến này. Bởi vì xét hoàn cảnh thực tế, trong khi đang tập trung chống Pháp rồi chống Mỹ, Hồ Chí Minh và Quốc hội không thể có điều kiện tập trung ban hành các bộ luật như Quốc hội hiện nay. Và với Hồ Chí Minh, chúng tôi tin rằng dù có điều kiện ban hành đầy đủ pháp luật, thì quan điểm đức trị vẫn được tôn trọng, dù không thể thay thế cho pháp trị. Trong tập thơ Nhật ký trong tù, Người đã từng nhắc "không dùng uy quyền, chỉ cần ân nghĩa" Tuy nhiên, với Hồ Chí Minh, ân nghĩa hoàn toàn không phải là quan hệ riêng tư của một số người, mà ân nghĩa chính là quyền lợi dân chủ cho đại đa số nhân dân. Người nói:
"Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta".
Là lãnh tụ tối cao của dân tộc, nhưng Hồ Chí Minh chưa bao giờ tự cho mình là đứng trên nhân dân. Người luôn tự coi mình và các cộng sự là đày tớ của nhân dân và đòi hỏi những đày tớ ấy phải lấy ý nguyện của dân làm mục đích hoạt động. Năm 1952, tại Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất, Người nói: "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân". Theo Hồ Chí Minh, để làm tròn nhiệm vụ phục vụ nhân dân, điều trước tiên đòi hỏi người cách mạng là phải tự mình rèn luyện đạo đức, phẩm chất. Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, mở đầu các bài giảng trong các lớp huấn luyện cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc), Hồ Chí Minh lại bắt đầu từ mục Tư cách người cách mệnh, và trong những tư cách ấy, tính tổ chức, kỷ luật và đạo đức của người cán bộ phải được đặt lên hàng đầu.
Dám làm, dám chịu trách nhiệm là tư cách đạo đức của Hồ Chí Minh. Cuối thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta chủ trương thực hiện cải cách ruộng đất để giải phóng nông dân. Đường lối, mục đích cải cách ruộng đất của Hồ Chí Minh và của Đảng là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng do một số sai lầm trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện mà cải cách ruộng đất đã phạm sai lầm, dẫn tới tổn thất uy tín của Đảng và hạn chế thắng lợi ở nông thôn. Khi phát hiện sai lầm, Hồ Chí Minh đã kiên quyết chỉ đạo sửa chữa và bản thân Người cũng nghiêm khắc tự kiểm điểm. Ngày 25-8-1956, trong lời khai mạc Hội nghị lần thứ mười (mở rộng) Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa II bàn về cải cách ruộng đất và chấn chỉnh tổ chức, Hồ Chí Minh đã nói: "Vì ta thiếu dân chủ nên nghe ít, thấy ít, nên bây giờ ta phải dân chủ. Tôi nhận trách nhiệm trong lúc sóng gió này. Tất cả Trung ương phải nghe, thấy, nghĩ, làm như thế. Bài học đau xót này sẽ thúc đẩy chúng ta".
Hồ Chí Minh là người cộng sản Việt Nam đầu tiên tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin, và cũng chính Người đã học tập ở chủ nghĩa Mác - Lênin hai điều quan trọng. Hai điều ấy, như chính Người đã từng bộc bạch: thứ nhất là, học phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và thứ hai là, muốn hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin thì phải sống với nhau có tình có nghĩa.
Ngày 7-6-1968, khi bàn với một số cán bộ về việc làm và xuất bản loại sách "Người tốt, việc tốt" nhằm động viên và khuyến khích mọi việc làm tốt đẹp trong nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa... Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được". Và cho đến những cùng trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Hồ Chí Minh đã ân cần nhắc nhở Đảng phải giữ gìn kỷ luật, đoàn kết, nâng cao tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình, nhưng sự phê bình ấy "phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Trong cuộc đấu tranh để tồn tại và phát triển, không chỉ riêng các chính đảng tư sản, mà ngay cả một số đảng anh em bạn bè ta cũng đã từng trải qua các cuộc thanh trừng nội bộ khốc liệt. May mắn thay, Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam có một lãnh tụ kiên quyết mà nhân hậu, đã đứng mũi chịu sào hứng bao sóng gió hiểm nguy, nhưng luôn lấy TÌNH NGƯỜI làm trọng. Bài học này, truyền thống này mãi mãi còn giữ nguyên giá trị, mãi mãi là cẩm nang để duy trì sức mạnh của một đảng cầm quyền.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hôm nay, Đảng ta và nhân dân ta đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Nhưng vận hội và thử thách, thời cơ và nguy cơ luôn luôn đan xen. Học tập tấm gương cao đẹp Hồ Chí Minh về tính kỷ luật, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình là một việc làm thiết thực để Đảng ta chỉnh đốn và tự đổi mới, làm trọn nhiệm vụ.
Vũ Thị Cẩm Tú
(Bài trích trong cuốn Sức cảm hóa Hồ Chí Minh)