Những năm 50 của thế kỷ XX, sau cuộc chiến tranh với Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc đã thiết lập một hệ thống tài chính độc lập. Trong vòng 20 năm sau, Hàn Quốc liên tục xây dựng cơ chế chính sách để thúc đẩy nền tài chính phát triển nhưng vẫn phụ thuộc nhiều vào bàn tay điều hành của Nhà nước.
1. Hệ thống tài chính của Hàn Quốc và chính sách nâng cao tính ổn định của hệ thống tài chính
Những năm 50 của thế kỷ XX, sau cuộc chiến tranh với Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc đã thiết lập một hệ thống tài chính độc lập. Trong vòng 20 năm sau, Hàn Quốc liên tục xây dựng cơ chế chính sách để thúc đẩy nền tài chính phát triển nhưng vẫn phụ thuộc nhiều vào bàn tay điều hành của Nhà nước. Cho đến những năm 1980, Hàn Quốc đã tìm hướng để chuyển nền tài chính sang cơ chế thị trường tự do và sau đó khoảng 10 năm, đất nước bắt đầu quá trình xúc tiến tự do hóa và mở cửa thị trường tài chính. Khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 xảy ra, Hàn Quốc bị ảnh hưởng nặng nề khi dòng vốn đầu tư nước ngoài rút ra ồ ạt trong khi Chính phủ không có những biện pháp kịp thời để ngăn chặn. Cuộc khủng hoảng đã buộc Chính phủ phải xúc tiến cải cách để củng cố sự bền vững của hệ thống tài chính trong nước.
Hiện nay, Hàn Quốc xây dựng và vận hành hệ thống tài chính theo hướng dựa vào ngân hàng (nghĩa là lấy ngân hàng làm trung gian tài chính trọng tâm với mức độ phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng cao) và là một hệ thống tài chính chuyên ngành (các tổ chức tài chính không được phép cung cấp cùng một lúc các loại dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm mà mỗi một dịch vụ được cung cấp bởi các tổ chức tài chính chuyên ngành). Tuy nhiên, Hàn Quốc cho phép thành lập loại hình công ty cổ phần tài chính gồm các công ty con, mỗi công ty con hoạt động trong một lĩnh vực tài chính riêng biệt.
Những năm 2000, Chính phủ Hàn Quốc đặt ra kế hoạch chuyển đổi mô hình cho hệ thống tài chính từ dựa vào ngân hàng sang mô hình dựa vào thị trường vốn. Tuy nhiên gặp phải cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 nên vài năm gần đây, Hàn Quốc mới quay lại kế hoạch này bằng cách xây dựng Luật Thị trường vốn tổng hợp, trong đó phân chia lại chức năng nhiệm vụ của các tổ chức tài chính và định hướng cho các tổ chức này hoạt động trong thị trường vốn.
Để ổn định nền tài chính và lành mạnh hóa nền kinh tế vĩ mô, Hàn Quốc đã áp dụng một số công cụ chính sách dưới đây:
- Công cụ chính sách nhằm đối phó với rủi ro hệ thống theo chu kỳ kinh tế với một số công cụ như Vốn dự trữ chống rủi ro chu kỳ (tỷ lệ CcyB là vốn dự trữ vượt quá mức tối thiểu, tỷ lệ này cho đến tháng 4/2016 được áp dụng ở mức 0%); Vốn dự trữ vùng đệm để xử lý cho các định chế tài chính khi gặp rủi ro liên quan đến chu kỳ kinh tế (2,5% vốn điều lệ); Hệ thống tiêu chuẩn vốn theo Basel III; Dự phòng nợ khó đòi; tỷ lệ nợ trên giá trị tài sản thế chấp, tỷ lệ nợ trên thu nhập ...
- Công cụ chính sách nhằm đối phó với rủi ro hệ thống theo ảnh hưởng chéo giữa các định chế tài chính với một số công cụ như Tiêu chuẩn cần bổ sung vốn dự trữ đối với các định chế tài chính có tầm quan trọng trong hệ thống (SIFIs); Hệ thống thanh toán trung tâm đối với các giao dịch OTC (CCP) nhằm hạn chế rủi ro thanh toán; Hệ thống tiêu chuẩn vốn theo Basel III; Đặt ra một số tiêu chuẩn để kiểm soát hoạt động của hệ thống ngân hàng ngầm (shadow banking system) như tiêu chuẩn về quỹ thị trường tiền tệ (money market fund), về quỹ tín thác bất động sản (REITs)….
a. Kinh nghiệm trong tín dụng bất động sản
Từ năm 2000 trở lại đây, giá bất động sản tăng mạnh, cho vay thế chấp BĐS cũng có xu hướng tăng theo. Từ tháng 9 năm 2002, Hàn Quốc bắt đầu áp dụng chỉ số tỷ lệ LTV (Loan to Value) là tỷ lệ số tiền vay trên giá trị bất động sản thế chấp. Mục đích áp dụng chỉ số này nhằm hạn chế quy mô cho vay bất động sản, tuy nhiên lại có nhược điểm là khi giá bất động sản tăng thì quy mô cho vay cũng tăng, gây nguy cơ bong bóng bất động sản và tăng lượng tín dụng bất động sản. Tỷ lệ LTV được điều chính theo giá bất động sản từng thời kỳ, theo giá bất động sản từng khu vực và theo mức độ phát triển của nền kinh tế. Do nhược điểm của LTV, tháng 8 năm 2005, Chính phủ Hàn Quốc bổ sung việc áp dụng chỉ số tỷ lệ DTI (Debt in Income) là tỷ lệ nợ trên thu nhập, trong đó DTI khác với LTV là DTI có tính đến toàn bộ các khoản nợ vay của chủ thể không chỉ giới hạn bởi vay bất động sản nhằm quản lý nợ tổng thể của người vay. DTI cũng được đưa ra dựa trên các yếu tố như khu vực, giá trị tài sản, theo mức độ phát triển của nền kinh tế và DTI cũng được áp dụng với tỷ lệ khác nhau giữa khối ngân hàng bảo hiểm và khối tổ chức phi ngân hàng khác. Cơ quan nghiên cứu và đưa ra tỷ lệ LTV và DTI trong từng thời kỳ là cơ quan giám sát tài chính quốc gia thuộc Ủy ban Tài chính.
b. Kinh nghiệm trong quản lý ngoại hối
Hàn Quốc là nước có sự tự do hóa tài chính nói chung và tự do hóa các giao dịch vốn nói riêng ở mức cao. Vì vậy, sự dịch chuyển của dòng vốn đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng lớn đến an ninh của hệ thống tài chính. Để tránh rủi ro hệ thống khi dòng vốn nước ngoài bị ồ ạt rút khỏi nền kinh tế, Chính phủ Hàn Quốc đã sử dụng một số công cụ điều hành để ổn định và lành mạnh hóa lĩnh vực ngoại hối, trong đó đáng chú ý như sau:
- Cơ chế hạn chế các hợp đồng ngoại hối phái sinh. Hàn Quốc là nước có đóng góp của giá trị xuất khẩu vào tăng trưởng kinh tế rất lớn nên nhu cầu phòng ngừa rủi ro ngoại hối của các doanh nghiệp thông qua các sản phẩm phái sinh, nhất là loại hợp đồng kỳ hạn ngoại hối với ngân hàng ở mức cao. Tuy nhiên, khi cung cấp các sản phẩm này cho doanh nghiệp, bản thân ngân hàng cũng gặp một số rủi ro đến từ sự biến động tỷ giá, tăng nợ ngắn hạn nước ngoài. Từ tháng 10 năm 2010, Hàn Quốc bắt đầu áp dụng cơ chế hạn chế các hợp đồng ngoại hối phái sinh, hiện nay tỷ lệ này là dưới 40% vốn chủ sở hữu của ngân hàng trong nước.
- Chi phí lành mạnh hóa ngoại hối: Áp dụng cơ chế này từ tháng 8/2011 để thành lập quỹ hỗ trợ thanh khoản ngoại hối cho các tổ chức tài chính khi có khó khăn.
- Ngoài ra còn áp dụng một số biện pháp khác như: Khôi phục việc đánh thuế đầu tư trái phiếu nước ngoài, quy định tỷ lệ cho vay/vốn huy động bằng ngoại tệ (mới áp dụng từ 16/6/2016).
2. Phát triển cân bằng giữa các vùng miền
Để phát triển cân bằng giữa các vùng, miền, Hàn Quốc thực hiện tốt các chủ trương sau:
- Xây dựng quy hoạch tổng thể lãnh thổ cấp Quốc gia, xác định được vai trò và nội dung chủ yếu, cấu trúc của bản quy hoạch, nguyên tắc phối hợp, ứng phó với những thay đổi kinh tế - xã hội.
- Nguyên tắc điều phối được thực hiện trên cơ sở bàn bạc thống nhất giữa các địa phương. Trường hợp không thống nhất sẽ được quyết định bởi cơ quan điều phối do Chính phủ thành lập trên cơ sở lợi ích Quốc gia.
- Hệ thống phản hồi được xây dựng xuyên suốt từ địa phương đến Trung ương thông qua các tiêu chí phản ánh tình hình phát triển kinh tế - xã hội một cách chi tiết và trung thực.
- Các chính sách phát triển riêng biệt từng địa phương phải nằm trong quy hoạch tổng thể chung. Vượt ra ngoài quy hoạch sẽ được ngăn chặn bởi cơ quan điều phối vùng, hoặc hệ thống phản hồi.
- Chính phủ có chính sách phát triển cân bằng giữa các vùng miền phù hợp với nhu cầu sinh kế của người dân. Điển hình là việc xây dựng thành phố mới Sejong nằm ở vị trí trung tâm Hàn Quốc. Đây được gọi là thành phố hạnh phúc và sự thật nó đã trở thành thành phố đáng sống của người dân trong 10 năm qua. Từ một vùng đất nông thôn thuần túy phía Tây Bắc thành phố Deajeon, cách thủ đô Seoul 200 km về phía nam, năm 2006, Chính phủ quyết định xây dựng thành phố hành chính mới mang tên thành phố hạnh phúc, chuyển một số cơ quan Nhà nước về đây, hệ thống giao thông, y tế, giáo dục, khu nhà ở,... được xây dựng đồng bộ, hiện đại và quản lý thông minh.
Kinh nghiệm có thể rút ra đối với Việt Nam là xây dựng và thực hiện nhất quán Quy hoạch tổng thể quốc gia và quy hoạch vùng, địa phương, chú trọng khâu kiểm soát quy hoạch; phát triển hệ thống giao thông, y tế, giáo dục đồng đều giữa các địa phương dựa trên việc đánh giá cụ thể về nhu cầu và xác định tính hiệu quả của vốn đầu tư. Phát huy tính tự chủ của các địa phương trong mối quan hệ vùng và cả nước có sự điều tiết của Cơ quan điều phối chính phủ.
Về phát triển các đặc khu kinh tế:
Đặc khu kinh tế với Hàn Quốc gồm các loại hình: Thành phố công nghiệp; Seamangeum; Khu công nghệ cao; Vành đai khoa học, thương mại; Khu kinh tế tự do; Khu đầu tư nước ngoài; Khu thương mại tự do; Đặc khu kinh tế và phát triển vùng. Mỗi loại hình theo mục đích thành lập sẽ có những chính sách cụ thể riêng nhằm thu hút các nhà đầu tư. Việc giám sát các đặc khu kinh tế được thực hiện sát sao trên cơ sở lợi ích nhà đầu tư gắn chặt với lợi ích quốc gia. Gần đây, các đặc khu còn được giám sát chặt chẽ bởi các yếu tố xã hội: môi trường, người lao động, công ích,...
Khu kinh tế tự do Incheon, khởi đầu là Khu đầu tư nước ngoài bên cạnh cảng Incheon. Sau khi sân bay Incheon được đầu tư xây dựng phục vụ cho Olympic 1998, khu kinh tế mở Incheon quanh sân bay trên đảo Incheon được thành lập thu hút các nhà đầu tư, tiếp theo khu công nghệ cao và đào tạo hàng đầu được xây dựng bên bờ nam Incheon. Từ đó hình thành Khu kinh tế tự do Incheon với thế kiềng 3 chân, quy tụ hàng loạt các nhà đầu tư với nhiều lĩnh vực công nghệ cao, đào tạo. Đặc biệt yếu tố sinh thái, cộng đồng được đề cao. Hiện nay, khu công nghệ cao đã trở thành thành phố thông minh và tiến tới toàn bộ Khu kinh tế tự do Incheon sẽ được số hóa và trở thành Khu kinh tế thông minh.
3. Chiến lược phát triển ngành công nghiệp
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá sau chiến tranh Nam - Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc đã xây dựng và thực hiện thành công chiến lược phát triển công nghiệp phù hợp với từng giai đoạn phát triển, dựa trên chiến lược phát triển công nghiệp đúng đắn và sự quyết tâm, minh bạch và có năng lực của Chính phủ. Khởi đầu, năm 1973 Hàn Quốc đã lựa chọn 5 lĩnh vực chiến lược để phát triển công nghiệp là: đóng tầu, sản xuất thép, sản xuất ôtô, điện tử, hoá chất. Tiếp theo là tập trung phát triển ngành dịch vụ và công nghiệp có giá trị gia tăng cao, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến. Trong suốt quá trình phát triển, Hàn Quốc đã vượt qua suy thoái, khủng hoảng tài chính, trở thành một cường quốc công nghệ, đứng trong tốp đầu của thế giới về sản xuất ôtô, máy tính, đóng tàu, sản xuất thép…
4. Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn
Giai đoạn đầu, Hàn Quốc tập trung phát triển nông nghiệp, nông thôn và xây dựng phong trào Seamaul Undong (SMU), đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cao năng lực, tính tự chủ của người dân nông thôn, tăng thu nhập, giảm đói nghèo, chuyển mạnh lao động nông nghiệp sang các ngành công nghiệp, dịch vụ. Chính phủ thực hiện Chiến lược thúc đẩy xuất khẩu nông sản, phát triển nông nghiệp: lựa chọn mặt hàng xuất khẩu chiến lược; thúc đẩy đầu tư R&D để nâng cao chất lượng ngành nông nghiệp; hỗ trợ xây dựng các tổ chức hộ nông dân sản xuất xuất khẩu; xây dựng hạ tầng xuất khẩu; xây dựng thương hiệu quốc gia, cấp chứng nhận xuất xứ, chứng chỉ chất lượng sản phẩm.
5. Cải cách chính phủ để phát triển
Xây dựng chính phủ có đủ năng lực quản lý, điều hành, liêm chính, trong sạch; xây dựng chính phủ điện tử, sử dụng công nghệ thông tin trong quản trị, cung cấp dịch vụ trực tuyến, rút ngắn các thủ tục hành chính, tiết kiệm chi phí, minh bạch. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ công chức thông qua thi tuyển được áp dụng từ năm 1963 đến nay. Công chức của Hàn Quốc được chia thành 02 loại: công chức có thâm niên và công chức có thâm niên đặc biệt, trong đó công chức có thâm niên được tuyển dụng theo thành tích và tư cách, dự định sẽ làm cả đời và được chia thành 7 cấp độ từ cấp 3 đến cấp 9; Công chức có thâm niên đặc biệt được tuyển dụng theo trình tự khác với công chức có thâm niên và không làm cả đời hay còn gọi là công chức cấp cao (cấp 1-2). Lương của công chức được đảm bảo khá cao, khoảng từ 85- 90% mức lương bình quân của những người đang làm trong các doanh nghiệp thuộc khối tư nhân. Hàn Quốc có những chương trình đào tạo bắt buộc đối với công chức mới được tuyển dụng và công chức sắp được thăng chức: đào tạo tại các trung tâm đào tạo trực thuộc Viện đào tạo công chức Trung ương hoặc cơ quan hành chính Trung ương; đào tạo tại nơi làm việc; đào tạo theo yêu cầu của các cơ quan trong và ngoài nước. Việc tuyển dụng công chức được công khai hàng năm qua các kỳ thi tuyển các cấp công chức, nguyên tắc thi tuyển đó là: Tạo điều kiện cho tất cả mọi người có thể tham gia; Tuyển dụng theo năng lực, tư cách, tư chất và kết quả thi tuyển; Không phân biệt độ đối với người tàn tật; Đảm bảo tính công bằng và thực lực trong suốt quá trình thi tuyển.
6. Chính sách ODA của Hàn Quốc
Từ khi còn là một nước nhận viện trợ từ cộng đồng quốc tế, Hàn Quốc cũng đã giành một phần vốn để viện trợ cho các nước kém phát triển. Trong quá trình phát triển kinh tế, dần dần Hàn Quốc trở thành nước đi viện trợ. Năm 2000, Hàn Quốc đã viện trợ 0,2 tỷ USD và đến năm 2016, con số này đã tăng hơn 11 lần, đạt 2,44 tỷ USD, bao gồm các khoản viện trợ song phương và đa phương và Hàn Quốc đang dự kiến sẽ tăng gấp đôi tỷ lệ ODA/GNI vào năm 2030 so với năm 2015. Trong tiến trình viện trợ cho các nước đang phát triển, Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc KOICA có vai trò quan trọng, không chỉ là cơ quan thực hiện chương trình viện trợ mà còn là cầu nối cho các quốc gia, các tổ chức khác thực hiện viện trợ cho các nước nghèo. 5 lĩnh vực ưu tiên tài trợ bởi KOICA bao gồm: (1) Công nghiệp và năng lượng; (2) Giáo dục; (3) Y tế; (4) Hành chính công; (5) Nông nghiệp. KOICA có 48 văn phòng đại diện tại 47 quốc gia. Đối với khu vực Châu Á, 3 nước được coi là trọng điểm bao gồm Việt Nam, Indonesia và Philippines, trong đó ngân sách viện trợ cho Việt Nam ở mức lớn nhất, đạt 6% tổng ngân sách của KOICA.
Vũ Cẩm Thú (Tổng hợp)