Ảnh minh họa
Nghị quyết 42-NQ/TW ra đời trong bối cảnh chính sách xã hội sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phải đối diện với những thách thức lớn như: quá trình phát triển, toàn cầu hóa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hóa, di dân tự do làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội; tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo làm thay đổi phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất và tiêu dùng, thay đổi thế giới việc làm; quá trình già hoá dân số diễn ra rất nhanh chóng; biến đổi khí hậu ảnh hưởng lớn đến Việt Nam và đang theo chiều hướng ngày càng tăng..., trong khi, hệ thống ASXH vẫn chưa đủ khả năng thích ứng để ứng phó với các thảm họa, các cú sốc trên diện rộng. Ngoài ra, các vấn đề an ninh phi truyền thống khác cũng đang tác động mạnh mẽ đến đời sống của người dân, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội, gia tăng rủi ro mâu thuẫn, xung đột xã hội, biến đổi xã hội theo chiều hướng tiêu cực.
Kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết 15-NQ/TW, ngày 10/6/2012 Hội nghị lần thứ 5 khóa XI Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 15-NQ/TW) cho thấy đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân khắp mọi miền đất nước được nâng lên rõ rệt; diện mạo xã hội thay đổi căn bản; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; kinh tế, xã hội phát triển toàn diện và hài hòa hơn; đem lại niềm tin và sự hài lòng của người dân, khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhận thức của hệ thống chính trị và Nhân dân về vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của chính sách xã hội trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn. Các chính sách xã hội không ngừng được hoàn thiện theo hướng tiến bộ và công bằng. Hệ thống chính sách xã hội đã cơ bản hoàn thiện, từng bước tiến tới mục tiêu đảm bảo công bằng, toàn diện, bao trùm, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế, cơ bản đảm bảo quyền an sinh của người dân, góp phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị và trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chính sách xã hội ngày càng khẳng định vai trò thiết yếu, nòng cốt trong phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro của người dân trong cuộc sống, nhất là qua đại dịch Covid-19 và thiên tai, bão lũ,… Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng được Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và xã hội đặc biệt quan tâm và thực hiện tốt nhất trong các chính sách xã hội. Công tác giảm nghèo đạt kết quả nổi bật, về đích trước thời hạn theo mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ và phát triển bền vững của Liên hợp quốc, là điểm sáng được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Thể chế thị trường lao động từng bước được hoàn thiện, trở thành giải pháp cơ bản tạo việc làm bền vững. Bảo hiểm xã hội (BHXH) từng bước khẳng định vai trò là trụ cột chính của hệ thống ASXH (ASXH), diện bao phủ BHXH và bảo hiểm thất nghiệp không ngừng được mở rộng. Chính sách trợ giúp xã hội đã mở rộng đối tượng, tăng mức hưởng; trợ giúp xã hội đột xuất đã bao phủ các nhóm đối tượng, bảo đảm người dân được hỗ trợ kịp thời khi gặp rủi ro, thiên tai, dịch bệnh. Hệ thống cơ sở y tế, giáo dục, trợ giúp xã hội tiếp tục được đầu tư, mở rộng, nâng cao chất lượng góp phần bảo đảm giáo dục, y tế, nhà ở tối thiểu, nước sạch, thông tin cơ bản cho Nhân dân; người có hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ kịp thời.
Tuy nhiên, chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội vẫn còn một số hạn chế, yếu kém, chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Kết quả giảm nghèo có nơi, có lúc chưa vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn cao, phân hoá giàu - nghèo có xu hướng gia tăng; đời sống một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng thường xuyên bị thiên tai; khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng, miền còn lớn. Thị trường lao động phát triển chưa đồng bộ, lao động khu vực phi chính thức còn lớn, đột phá về nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chuyển biến chưa rõ nét; giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thị trường lao động. Phạm vi bao phủ và khả năng giải quyết rủi ro của các chính sách xã hội còn thấp. Việc đảm bảo y tế cơ bản; năng lực, chất lượng y tế cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là trong ứng phó với dịch bệnh; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Việc thực hiện chính sách nhà ở cho người người lao động, người thu nhập thấp còn nhiều khó khăn; tỷ lệ người dân ở nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn còn thấp. Số lượng và chất lượng dịch vụ xã hội cơ bản tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp; các dịch vụ phòng chống bạo lực, bạo hành gia đình tại cộng đồng, phòng chống buôn bán người, cai nghiện ma túy chưa toàn diện. Cán bộ y tế cơ sở, giáo viên thiếu về số lượng, yếu về chất lượng; chất lượng giáo dục phổ thông có mặt còn hạn chế.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên là do nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của chính sách xã hội chưa đầy đủ, toàn diện; chưa quan tâm đúng mức công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện. Hệ thống chính sách, pháp luật về chính sách xã hội chưa hoàn thiện, đồng bộ. Thiếu cơ chế, chính sách khuyến khích khu vực ngoài nhà nước tham gia cung cấp dịch vụ công. Công tác quản lý nhà nước còn bất cập; phương thức quản lý chậm đổi mới. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ; công tác thanh tra, kiểm tra ở nhiều nơi chưa được coi trọng. Chậm hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tổ chức thực hiện chính sách xã hội. Chưa đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương, nhất là trong quản lý, tổ chức triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia. Nguồn lực đầu tư của nhà nước và xã hội còn hạn chế; việc huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực có nơi, có lĩnh vực hiệu quả chưa cao.
Trước những thách thức, nhằm khắc phục những hạn chế và yếu kém của chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội, Nghị quyết số 42-NQ/TW đã đề ra những quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trong giai đoạn mới với những điểm mới, đáng chú ý sau:
1. Về hướng tiếp cận và phạm vi của Nghị quyết số 42-NQ/TW
- Về hướng tiếp cận: So với Nghị quyết 15-NQ/TW, Nghị quyết 42-NQ/TW có sự điều chỉnh về tiếp cận, từ bảo đảm và ổn định sang ổn định và phát triển; gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm ASXH, an ninh con người, an ninh xã hội. Nếu như Nghị quyết số 15/NQ-TW, tập trung theo hướng đảm bảo ASXH mức tối thiểu cả về thu nhập, đời sống người dân và các dịch vụ xã hội cơ bản, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước thì Nghị quyết số 42-NQ/TW kết hợp hài hoà giữa tiếp tục đảm bảo ASXH, các chính sách xã hội khác để tiếp tục đảm bảo ổn định xã hội, đồng thời tập trung cho phát triển xã hội, tiến bộ xã hội thông qua phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực, phát triển tầng lớp trung lưu gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững và làm động lực phát triển kinh tế, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Về phạm vi, so với Nghị quyết 15-NQ/TW, Nghị quyết 42-NQ/TW mở rộng hơn. Nếu như Nghị quyết 15-NQ/TW tập trung vào chính sách ưu đãi người có công với cách mạng và chính sách đảm bảo ASXH, thì Nghị quyết 42-NQ/TW mang tính bao trùm, toàn diện hơn, gồm toàn bộ các chính sách xã hội: chính sách lao động, việc làm, phát triển nguồn nhân lực; chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; đảm bảo ASXH, nâng cao phúc lợi xã hội và đảm bảo tiếp cận dịch vụ xã hội có chất lượng cho mọi người dân, đặc biệt luôn quan tâm đến nhóm yếu thế, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người có hoàn cảnh khó khăn ở vùng sâu, vùng xa.
2. Về quan điểm
Nghị quyết 42-NQ/TW đưa ra 04 quan điểm lớn, cụ thể là:
- Quan điểm 1: tiếp tục khẳng định quan điểm xuyên suốt của Đảng về vị trí, vai trò của chính sách xã hội trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; khẳng định, kế thừa những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết 15-NQ/TW, đã được thực tế kiểm nghiệm là đúng đắn, vẫn còn nguyên giá trị, nội dung này của Nghị quyết làm rõ hơn quan điểm xuyên suốt của Đảng ta về chính sách xã hội; nhấn mạnh quan điểm, chính sách xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng, gắn liền và song hành với phát triển kinh tế.
- Quan điểm 2: nhấn mạnh tới việc đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội theo hướng toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững. Cụ thể là mở rộng phạm vi ra toàn bộ các chính sách xã hội; toàn diện các mặt đời sống Nhân dân, mở rộng từ ASXH tập trung cho nhóm yếu thế, mức tối thiểu sang chính sách xã hội toàn dân, và toàn diện các mặt đời sống (gồm cả ASXH và nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, trọng tâm là phúc lợi về y tế, giáo dục, nhà ở, văn hoá), phát triển và lấy tầng lớp trung lưu dẫn dắt xã hội.
- Quan điểm 3: tiếp tục khẳng định quan điểm đầu tư cho con người là đầu tư cho phát triển, Nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, đảm bảo nguồn lực một số chính sách, lĩnh vực, đồng thời tăng cường sự tham gia của xã hội, tăng cường vai trò các lực lượng xã hội và huy động thích hợp nguồn lực xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội. Quan điểm đổi mới công tác quản lý Nhà nước; tăng cường phân cấp, phân quyền là quan điểm mới trong Nghị quyết nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong việc xây dựng, thực thi chính sách xã hội và quản lý xã hội.
- Quan điểm 4: tiếp tục nhấn mạnh việc thực hiện chính sách xã hội phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý chặt chẽ, hiệu quả của Nhà nước, sự giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và sự tham gia tích cực của người dân, doanh nghiệp.
3. Mục tiêu và tầm nhìn
Nghị quyết 42-NQ/TW đã đề ra mục tiêu đến năm 2030 với 37 chỉ tiêu cụ thể, đồng thời đề ra tầm nhìn đến năm 2045. Các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể phù hợp với các chỉ tiêu, mục tiêu Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra với tầm nhìn đến năm 2045 là: Hệ thống chính sách xã hội phát triển toàn diện, bền vững, tiến bộ và công bằng, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho Nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất nước và xây dựng con người Việt Nam toàn diện. Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có chỉ số phát triển con người (HDI) cao trên thế giới”.
4. Các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
So với Nghị quyết 15-NQ/TW, những nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết 42-NQ/TW mang tính đồng bộ, bao trùm, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực về chính sách xã hội. Nếu như Nghị quyết 15-NQ/TW đề ra 03 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, thì Nghị quyết 42-NQ/TW đưa ra 09 nhóm nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của chính sách xã hội. Nhìn chung các nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết 42-NQ/TW đã kế thừa các nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết 15-NQ/TW như tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, chính sách ASXH, đảm bảo mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân…, đồng thời đề ra các nhiệm vụ giải pháp mang tính toàn diện, bao trùm hơn, thể hiện ở một số điểm sau:
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về vai trò đặc biệt quan trọng, quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của chính sách xã hội trong giai đoạn mới cho cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý và Nhân dân, đặc biệt là người đứng đầu. Đây là nội dung mới, khắc phục những hạn chế mà quá trình tổng kết Nghị quyết số 15-NQ/TW đã chỉ ra nhằm quán triệt thống nhất trong nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị và toàn dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của chính sách xã hội.
- Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cá thể hoá trách nhiệm trong tổ chức thực hiện; đẩy mạnh chuyển đổi số, số hoá quy trình quản lý và tổ chức thực hiện chính sách. Đặc biệt, nếu như Nghị quyết 15-NQ/TW yêu cầu xây dựng cơ sở dữ liệu hộ gia đình, mã số ASXH thì Nghị quyết 42-NQ/TW yêu cầu phải từng bước áp dụng mã số ASXH cho người dân làm cơ sở quản lý, giám sát, đánh giá việc thực hiện chính sách ASXH.
- Trong khi việc làm và thu nhập là một trong những chính sách ASXH tại Nghị quyết 15-NQ/TW thì Nghị quyết 42-NQ/TW đã tách vấn đề này thành nhiệm vụ, giải pháp riêng về phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm bền vững cho người lao động, với các nội dung từ chính sách dân số và phát triển, giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, đặc biệt là nhân lực công nghệ cao, công nghệ mới, công nghiệp phụ trợ, đến phát triển thị trường lao động. Một điểm mới là Nghị quyết 42-NQ/TW yêu cầu thể chế hóa trách nhiệm của doanh doanh nghiệp trong đào tạo nghề nghiệp cho người lao động.
- Nghị quyết 42-NQ/TW yêu cầu phát triển hệ thống ASXH toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội, người dân và giữa các nhóm dân cư, bảo đảm bền vững và công bằng xã hội; không chỉ quan tâm đến đời sống vật chất mà còn quan tâm đến đời sống tinh thần cho người dân; có chính sách trợ cấp cho gia đình có trẻ em, hỗ trợ cho người không có khả năng lao động, người thu nhập thấp; phấn đấu nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội theo hướng đảm bảo mức sống tối thiểu, sàn ASXH quốc gia.
- Nếu như Nghị quyết 15-NQ/TW đề ra nhiệm vụ và giải pháp đảm bảo tiếp cận mức tối thiểu các dịch vụ xã hội cơ bản, ưu tiên các nhóm yếu thế, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, thì Nghị quyết 42-NQ/TW đã chuyển trọng tâm sang đảm bảo nâng cao phúc lợi xã hội cho mọi người dân, đảm bảo cho mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng, nhất là về giáo dục, y tế, nhà ở và văn hoá. Nhằm thích ứng và đối phó với những thách thức mới như đại dịch Covid-19, Nghị quyết 42-NQ/TW đề ra nhiệm vụ mới là nâng cao chất lượng dự báo, giám sát, phát hiện, phòng ngừa có hiệu quả dịch bệnh, đảm bảo an ninh y tế. Ngoài việc đảm bảo người dân được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin) như Nghị quyết 15-NQ/TW, Nghị quyết 42-NQ/TW bổ sung thêm dịch vụ văn hóa với nhiệm vụ không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của Nhân dân, từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội, đặc biệt là nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nơi tập trung đông người lao động...
- Nghị quyết 42-NQ/TW đề ra nhiệm vụ đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản, trong đó nhấn mạnh chú trọng phát triển hệ thống chăm sóc người cao tuổi ứng phó với vấn đề già hóa dân số nhanh.
Trong thời gian tới, nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết 42-NQ/TW, các đảng đoàn, ban cán sự đảng, các ban của Đảng, các đảng ủy trực thuộc Trung ương, các tỉnh ủy và thành ủy cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ theo Kế hoạch số 19-KH/TW, ngày 7/11/2023 của Bộ Chính trị về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, cụ thể là:
- Tiếp tục tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết và Kế hoạch số 19-KH/TW.
- Nghiên cứu, ban hành chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và thực tiễn của cơ quan, đơn vị và địa phương.
- Khẩn trương thể chế hóa Nghị quyết, hoàn thiện hệ thống pháp luật về chính sách xã hội; xây dựng chiến lược, chương trình quốc gia, đề án về chính sách xã hội.
- Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện Nghị quyết; kịp thời phát hiện, tuyên truyền, nhân rộng các mô hình mới, cách làm hay, hiệu quả cao; chấn chỉnh những nơi thực hiện Nghị quyết chưa tốt.
- Huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực thực hiện chính sách xã hội./.
Tài liệu tham khảo
- Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 10/6/2012 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.
- Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24/11/2023 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng các chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
- Kế hoạch số 19-KH/TW, ngày 27/11/2023 của Bộ Chính trị về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng các chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
- Tài liệu Phục vụ Hội nghi toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.
- Đề cương Báo cáo chuyên đề Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng các chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Tống Thu Huyền, Phó Vụ trưởng Vụ Xã hội, Ban KTTW