Đồng chủ trì có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc; Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ; Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu chỉ đạo Hội nghị
Dự Hội nghị có các Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Trưởng các Ban xây dựng Đảng, Trưởng các cơ quan bộ, ngành liên quan, Ban thường vụ các Tỉnh ủy vùng đồng bằng sông Cửu Long, đại diện lãnh đạo: Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trưởng các tổ chức chính trị-xã hội ở Trung ương, Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương.
Các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước chủ trì Hội nghị
Tại điểm cầu các ban, bộ, ngành, cơ quan trực thuộc Trung ương có các đồng chí lãnh đạo cơ quan, cán bộ chủ chốt cấp tổng cục, cục, vụ.
Tại điểm cầu các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long có các đồng chí: Phó Bí thư Tỉnh ủy, Ủy viên Ban Chấp hành, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, lãnh đạo sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội. các cơ quan, đơn vị của Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh; Bí thư, Phó Bí thư, Trưởng các ban: Tổ chức, tuyên giáo, dân vận, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra cấp ủy, cấp huyện.
Đây là Hội nghị quan trọng nhằm tổ chức nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đến các Ban, Bộ, ngành liên quan ở Trung ương và các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long; nâng cao nhận thức, trách nhiệm, quyết tâm chính trị của các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên nhằm triển khai thực hiện quyết liệt, có hiệu quả Nghị quyết của Bộ Chính trị do Ban Kinh tế Trung ương chủ trì tham mưu, ban hành.
Trình bày về những nội dung cơ bản của Nghị quyết số 13-NQ/TW, Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương nêu rõ, triển khai Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và thực hiện Chương trình làm việc số 05-CTr/TW ngày 16/3/2021 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2021, Ban Kinh tế Trung ương được giao chủ trì triển khai Đề án: “Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 20/01/2003 của Bộ Chính trị khóa IX về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2001-2010; Kết luận số 28-KL/TW, ngày 14/8/2012 của Bộ Chính trị khóa XI về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2011-2020”. Sau gần 1 năm triển khai, Đề án tổng kết Nghị quyết số 21-NQ/TW đã hoàn thành và báo cáo Bộ Chính trị; được Bộ Chính trị thông qua và thống nhất ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 về “Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
Đồng chí cho biết, Nghị quyết số 13-NQ/TW là sản phẩm kết tinh từ trí tuệ tập thể, là kết quả tổng hợp từ các Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW của 13 địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long và 19 bộ, ngành; chọn lọc từ các kết quả nghiên cứu về vùng và các ý kiến đóng góp của các bộ, ngành và các thành viên Ban Chỉ đạo, các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học tại các hội nghị, hội thảo, tọa đàm, khảo sát thực tế; cập nhật, bổ sung các quan điểm, chủ trương mới của Đảng về phát triển vùng cũng như đánh giá bối cảnh mới, tình hình mới tác động đến vùng. Việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với vùng; đáp ứng nguyện vọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong vùng trong bối cảnh phát triển mới. Nghị quyết là cơ sở, căn cứ chính trị quan trọng cho sự ra đời của các cơ chế, chính sách mới nhằm khai thác và phát huy ở mức cao nhất tiềm năng, lợi thế cho phát triển nhanh và bền vững toàn vùng và các địa phương trong vùng thời gian tới.
Bộ Chính trị đã đánh giá các kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Đồng bằng sông Cửu Long sau 18 năm thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW. Bộ Chính trị khẳng định, trong thời gian qua, diện mạo vùng thay đổi nhanh và toàn diện; Kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt được kết quả khá toàn diện; trở thành vùng trọng điểm nông nghiệp của cả nước với nhiều sản phẩm chủ lực, nhất là lúa, tôm, cá tra, trái cây; trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo; quốc phòng, an ninh được giữ vững; công tác xây dựng đảng, hệ thống chính trị được đẩy mạnh; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng cao. Những kết quả đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh của vùng thời gian qua khẳng định Nghị quyết 21-NQ/TW đã thực sự đi vào cuộc sống.
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 13-NQ/TW cũng đã chỉ ra quá trình phát triển của vùng còn những hạn chế, bất cập và gặp nhiều khó khăn, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; hạ tầng giao thông vận tải chậm phát triển, thiếu đồng bộ, chưa phát triển đồng đều và liên kết giữa các phương thức vận tải; hoạt động liên kết vùng, tiểu vùng chưa thực sự hiệu quả; văn hoá - xã hội còn những bất cập, có nơi vẫn là “vùng trũng” về y tế, giáo dục của cả nước...
Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương trình bày về
những nội dung cơ bản của Nghị quyết số 13-NQ/TW
Trong Nghị quyết số 13-NQ/TW, Bộ Chính trị cũng đã chỉ ra những nguyên nhân khách quan và chủ quan trong phát triển vùng thời gian qua như: Thiên tai, biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, thay đổi dòng cháy Mê Công, chặt phá rừng tác động, ảnh hưởng ngày càng nặng nề. Đặc biệt là các nguyên nhân chủ quan, đó là: Nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của vùng chưa cao; tư duy về liên kết vùng chậm được đổi mới; Hoạt động của Hội đồng điều phối vùng chưa hiệu quả; Chất lượng quy hoạch vùng và quy hoạch các địa phương trong vùng còn thấp, thiếu sự liên thông và kết nối giữa chiến lược - quy hoạch - kế hoạch - đầu tư; Đầu tư của Trung ương cho vùng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông; Phối hợp giữa các bộ, ngành Trung ương với các địa phương còn chưa chặt chẽ. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, có mặt còn hạn chế, tính năng động chưa cao.
Về quan điểm, trên cơ sở đánh giá các kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế; phân tích bối cảnh mới trong nước, quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với phát triển vùng, Bộ Chính trị đã đưa ra 5 nhóm quan điểm chỉ đạo cho phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới.
Về tầm nhìn và mục tiêu, căn cứ vào các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 đã được đưa ra tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng; bám sát các quan điểm chỉ đạo như đã được trình bày ở trên, căn cứ đặc điểm tình hình của vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nghị quyết số 13-NQ/TW đã xác định mục tiêu phát triển vùng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, nhấn mạnh đến năm 2030 "Xây dựng vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện đại, sinh thái, văn minh, phát triển nhanh và bền vững, mang đậm bản sắc văn hoá sông nước; là trung tâm kinh tế nông nghiệp xanh, sản xuất hàng hóa lớn, chất lượng và giá trị gia tăng cao của quốc gia, khu vực và thế giới" và tầm nhìn đến năm 2045 “là vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, phân bổ hợp lý và thích ứng với biến đổi khí hậu; kinh tế phát triển năng động, hiệu quả, cơ cấu phù hợp với điều kiện tự nhiên, đa dạng sinh học, văn hoá và con người Nam Bộ; chất lượng cuộc sống của người dân ở mức cao;…”.
Các đại biểu tham dự hội nghị
Để cụ thể hóa các mục tiêu phát triển vùng đến năm 2030, Nghị quyết số 13-NQ/TW đã đưa ra 3 nhóm chỉ tiêu chính với 14 chỉ tiêu cụ thể cho phát triển vùng. Để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra, Nghị quyết 13-NQ/TW đã đề ra 5 nhóm nhiệm vụ giải pháp chủ yếu.
Quang cảnh hội nghị
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gợi mở tập trung vào trả lời 3 câu hỏi: Vì sao lúc này Bộ Chính trị lại bàn và ra Nghị quyết về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045? Những ý tưởng mới, tinh thần mới, nội dung mới của Nghị quyết lần này là gì? Cần làm gì và làm như thế nào để thực hiện có kết quả Nghị quyết của Bộ Chính trị, biến Nghị quyết thành hiện thực sinh động?
Để tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết lần này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý, phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết, nắm vững những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm, trên cơ sở đó có sự thống nhất cao về ý chí, quyết tâm của cả nước, toàn vùng, từng địa phương trong vùng, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương.
“Xác định rõ đây là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị, chứ không chỉ là nhiệm vụ riêng của vùng và các địa phương trong vùng. Đồng thời, phải nhận thức thật đúng và giải quyết thật tốt mối quan hệ giữa phát triển vùng và phát triển chung của cả nước: Cả nước vì vùng và vùng vì cả nước”, Tổng Bí thư nhấn mạnh.
Tạo sự thống nhất cao trong nhận thức ở tất cả các cấp, các ngành về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của vùng và liên kết vùng; liên kết vùng phải trở thành tư duy chủ đạo dẫn dắt sự phát triển toàn vùng và từng địa phương trong vùng; tập trung ưu tiên hoàn thiện thể chế, chính sách cho phát triển vùng và liên kết vùng về tổ chức, bộ máy, nguồn lực và cơ chế triển khai; tham gia có hiệu quả vào các hoạt động hợp tác với các nước thuộc Tiểu vùng sông Mê Công, nhất là trong việc khai thác, sử dụng nguồn nước sông Mê Công.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Cần khơi dậy và phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước; tính chủ động, sáng tạo; ý thức tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên của cán bộ, đảng viên và nhân dân các địa phương trong vùng; quyết vượt lên chính mình, khắc phục tư tưởng tự mãn, bằng lòng với những gì đã làm, trung bình chủ nghĩa; trái lại, phải có ý chí và quyết tâm cao hơn nữa, quyết không cam chịu đói nghèo, thua kém các tỉnh khác, vùng khác”.
Đồng thời, vùng cần tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương, sự hợp tác, giúp đỡ của các địa phương trong cả nước, nhất là Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh vùng Đông Nam Bộ để phát triển kinh tế vùng nhanh và bền vững hơn, giàu có, trù phú hơn; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vùng đạt mức cao hơn bình quân chung của cả nước.
Trên cơ sở đổi mới về tư duy và nhận thức, đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển vùng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị, Chính phủ và các cơ quan ở Trung ương cần tăng cường phối hợp với các địa phương trong vùng khẩn trương xây dựng, hoàn thiện, ban hành, triển khai thực hiện luật pháp, chính sách ưu tiên, có tính đặc thù cho phát triển vùng.
Tổ chức thực hiện thật tốt quy hoạch phát triển vùng giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo hướng xanh, bền vững và toàn diện; phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia, bảo đảm tích hợp, đa ngành; gắn kết giữa phát triển nông nghiệp với phát triển công nghiệp và dịch vụ; giữa phát triển đô thị với xây dựng nông thôn mới; giữa phát triển kinh tế với quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; ứng phó với thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn; hình thành được các chuỗi giá trị ngành, sản phẩm của vùng.
Vùng cần đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thu hút và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển; ưu tiên bố trí nguồn vốn ngân sách nhà nước, kết hợp với huy động các nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển các công trình trọng điểm có sức lan tỏa, giải quyết các vấn đề phát triển vùng và liên vùng; phát triển vùng toàn diện cả về kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh nơi cực Nam của Tổ quốc.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, tăng cường, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác xây dựng bộ máy tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ; nghiêm túc thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị; kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tiên phong, gương mẫu về đạo đức và lối sống; thực hiện nghiêm các chủ trương về đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, liêm chính, trong sạch; giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, thế hệ trẻ; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có bản lĩnh chính trị, tính chuyên nghiệp cao và năng lực sáng tạo.
Các tỉnh, thành phố trong vùng, tiếp tục cải cách hành chính, phát triển chính quyền điện tử, hướng đến chính quyền số, nền kinh tế số và xã hội số, đô thị thông minh; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi và bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; khơi dậy tinh thần cống hiến của cán bộ, công chức; đổi mới công tác dân vận và hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân ta và các nước bạn.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu, ngay sau Hội nghị này, căn cứ vào Nghị quyết, Kế hoạch của Bộ Chính trị, sự chỉ đạo, hướng dẫn của các ban đảng Trung ương và các cơ quan cấp trên, các cấp ủy, tổ chức đảng ở Trung ương và các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị trong toàn hệ thống chính trị của các địa phương trong vùng cần khẩn trương xây dựng kế hoạch hành động, chương trình học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết gắn với tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội đảng bộ các tỉnh.
Ban cán sự đảng Chính phủ cần chỉ đạo, khẩn trương xây dựng, ban hành Chương trình hành động triển khai Nghị quyết, giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành ở Trung ương và các địa phương trong vùng. Chương trình hành động phải bám sát các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và nội dung của Nghị quyết, bảo đảm sát hợp với từng địa phương trong vùng và tiểu vùng. Các ban, bộ, ngành Trung ương và các địa phương trong vùng cần cụ thể hóa Nghị quyết và Chương trình hành động của Chính phủ bằng các cơ chế, chính sách, kế hoạch, đề án, dự án và nguồn lực cụ thể, có tính khả thi cao.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tin tưởng, cấp ủy, chính quyền và nhân dân các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của phong trào "đồng khởi", khí phách anh hùng "thành đồng" Tổ quốc và phẩm chất cao quý, rất tốt đẹp của người miền Tây; cùng với các ban, bộ, ngành Trung ương và cấp ủy chính quyền các cấp trong cả nước, đổi mới, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn nữa, thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Bộ Chính trị lần này, tạo ra bước chuyển biến mới có tính đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh trên vùng Đồng bằng sông Cửu Long - Vùng đất chín rồng theo tinh thần: Cả nước vì Đồng bằng sông Cửu Long; Đồng bằng sông Cửu Long vươn lên cùng cả nước và vì cả nước.
Tổng hợp theo TTXVN