Tham dự Tọa đàm có các đồng chí đại diện lãnh đạo các tỉnh vùng Bắc Trung bộ; đại diện một số ban, bộ, ngành Trung ương, thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ Biên tập Đề án; một số viện, trường, chuyên gia, nhà khoa học.
Đồng chí Vũ Đại Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình phát biểu khai mạc Tọa đàm
Ngày 16/8/2004, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 39-NQ/TW về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ đến năm 2010 (Nghị quyết 39-NQ/TW). Sau đó, ngày 02/8/2012, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Kết luận số 25-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW.
Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị và Kết luận số 25-KL/TW đặt ra 5 mục tiêu đối với phát triển vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ: (1) Phát triển kinh tế biển gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền biển đảo; (2) Sớm tiến kịp các vùng khác trong nước (3) Đầu cầu quan trọng trong giao lưu hợp tác quốc tế; (4) Hạn chế tối đa ảnh hưởng của thiên tai, lũ bão, hạn hán; ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, bảo vệ môi trường sinh thái; (5) Cải thiện căn bản đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân.
Đồng chí Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo
phát biểu tại Tọa đàm
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, cụ thể là Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đã định hướng đối với vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ là: Tập trung phát triển mạnh kinh tế biển kết hợp với bảo đảm quốc phòng - an ninh trên biển, nhất là đánh bắt và nuôi trồng hải sản xa bờ; Cơ cấu lại nông, lâm nghiệp, khai thác, nuôi trồng thủy, hải sản gắn với công nghiệp chế biến, bảo đảm bền vững và hiệu quả cao; Phát triển nhanh, đồng bộ năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; Tăng cường liên kết vùng, tiếp tục hình thành, phát triển hệ thống đô thị ven biển, các trung tâm du lịch biển, du lịch sinh thái mang tầm khu vực và quốc tế. Phát triển các cảng biển và dịch vụ cảng biển, hạ tầng và các trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá; Nâng cao năng lực phòng, chống, giảm thiểu thiệt hại của thiên tai, bão lũ, hạn hán; chủ động ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, chống sa mạc hóa, sạt lở bờ sông, bờ biển.
Phát biểu khai mạc Tọa đàm, đồng chí Vũ Đại Thắng, Ủy viên BCHTWĐ, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình nhấn mạnh, tiểu vùng Bắc Trung bộ gồm các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, là địa bàn đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, chính trị, quốc phòng - an ninh, nằm trọn vẹn trong phạm vi quản lý của Quân khu 4 (diện tích 5,2 triệu ha 10% cả nước; dân số gần 10 triệu người). Các tỉnh trong vùng đều có đặc điểm chung là phía Tây giáp dãy Trường Sơn và nước bạn Lào, phía Đông giáp Biển Đông; địa hình kéo dài, phân định phức tạp, đa dạng (vùng núi, trung du, đồng bằng, vùng cát ven biển); thời tiết khắc nghiệt, nhiều biến động. Từ thực tiễn cấu trúc địa hình, phân bổ dân cư các tỉnh, Nghị quyết số 39-NQ/TW đã định hướng hình thành một số khu vực kinh tế quan trọng trong tiểu vùng như: thành phố Thanh Hóa; khu Nam Thanh - Bắc Nghệ; Vinh - Bắc Hà Tĩnh gắn với đường 7, đường 8 và cửa khẩu Cầu Treo; Bắc Quảng Bình - Nam Hà Tĩnh gắn với khu công nghiệp Vũng Áng, cảng Hòn La, khu du lịch Phong Nha - Kẻ Bàng với đường 12A và cửa khẩu Cha Lo, Đông Hà - Quảng Trị gắn với đường 9 và khu kinh tế cửa khẩu Lao Bảo.
Đoàn chủ tọa buổi Tọa đàm
Tiểu vùng Bắc Trung bộ có nhiều tiềm năng to lớn, vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế biển và các hoạt động kinh tế trên dải đất liền ven biển như: Kinh tế hàng hải; nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy, hải sản; du lịch biển; xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp gắn với các khu đô thị ven biển; tiềm năng phát triển các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, năng lượng tái tạo...; cùng với địa danh cách mạng, các di tích lịch sử, văn hóa tiêu biểu sẽ là tiền đề quan trọng để các tỉnh trong vùng đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tạo sự bứt phá trong giai đoạn tới.
Thực hiện các văn kiện Đại hội Đảng và các Nghị quyết của Đảng, trong thời gian qua, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và bộ ngành Trung ương đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng, tiểu vùng. Sau gần 20 năm thực hiện Nghị quyết 39-NQ/TW, các cấp, các ngành, nhất là các địa phương trong tiểu vùng đã bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp được nêu trong Nghị quyết 39-NQ/TW và Kết luận số 25- KL/TW; vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành; cụ thể hóa nội dung Nghị quyết thành các kế hoạch, chương trình, đề án và đã hoàn thành được phần lớn các chỉ tiêu, mục tiêu đề ra trên địa bàn để triển khai thực hiện; nhờ đó, các cấp, các ngành, các địa phương đã nhận thức ngày càng rõ hơn vệ trí, vai trò tầm quan trọng của tiểu vùng; tư duy về phát triển vùng, tiểu vùng cũng đã có nhiểu đổi mới; tiềm năng, lợi thế của tiểu vùng từng bước được khai thác hợp lý, phát huy hiệu quả. Đảng bộ và chính quyền các địa phương đã có nhiều nỗ lực vươn lên, chủ động khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, về nuồn lực con người để phát triển. Nhiều địa phương đã trở thành điểm sáng của cả nước về phát triển kinh tế - xã hội. Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ngày càng tăng. Kết cấu hạ tầng được dần đầu tư mở rộng theo hướng hiện đại. Hệ thống đô thị hình thành, phát triển. Các khu du lịch ven biển, sinh thái, chất lượng cao, có thương hiệu dần trở thành động lực quan trọng cho phát triển. Kinh tế biển, đảo được chú trọng và khai thác hiệu quả hơn. Một số vùng sản xuất thâm canh cây trồng, vật nuôi tập trung, có sản lượng lớn phục vụ sản xuất và chế biến nông sản xuất khẩu. Văn hóa - xã hội có bước phát triển và đạt được những kết quả tích cực. Giáo dục - đào tạo, y tế phát triển nhanh. Công tác xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội có nhiều tiến bộ. Đời sống nhân dân tiểu vùng từng bước được cải thiện.
Phiên thảo luận của Tọa đàm
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, tiểu vùng Bắc Trung bộ vẫn là tiểu vùng kém phát triển trong vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ. Năm 2020, GRDP/người (49 triệu đồng/người), năng suất lao động (87 triệu đồng/lao động); năm 2021 thu nhập bình quân đầu người đều thấp nhất vùng (3.218 triệu đồng/tháng/người so với 3.493 triệu đồng/người/tháng). Mặc dù, khoảng cách về thu nhập so với trung bình vùng và trung bình cả nước đang được thu hẹp lại nhanh hơn các tiểu vùng khác. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia 2016-2020 cũng cao hơn trung bình vùng. Tỷ lệ đô thị hóa của tiểu vùng năm 2020 cũng thấp hơn trung bình vùng và thấp hơn trung bình cả nước (hơn 20% thấp hơn mức 31,47% của cả vùng Duyên hải miền Trung, thấp hơn mức trung bình của cả nước 36,82%). Các hoạt động liên kết vùng vẫn chưa hiệu quả và chưa được như mong muốn.
Phát biểu đề dẫn Tọa đàm, đồng chí Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo nhấn mạnh, nhằm triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Bộ Chính trị đã chỉ đạo tổng kết các Nghị quyết 6 vùng kinh tế đã được ban hành cách đây gần 20 năm và chủ trương sẽ ban hành các Nghị quyết mới nhằm định hướng cho phát triển các vùng để phát huy được được các tiềm năng, lợi thế, tối ưu hóa nguồn lực, đáp ứng yêu cầu phát triển của từng vùng trong bối cảnh, tình hình mới của đất nước. Nghị quyết mới về các vùng cũng là cơ sở, căn cứ chính trị quan trọng để các bộ, ngành ban hành các cơ chế, chính sách mới và bổ sung nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững vùng và các địa phương trong vùng thời gian tới. Ban Kinh tế Trung ương được giao chủ trì Đề án Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 39 của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ đến năm 2010 và Kết luận số 25-KL/TW, ngày 02/8/2012 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39.
Tọa đàm "Liên kết phát triển tiểu vùng Bắc Trung bộ trong bối cảnh mới” là Toạ đàm thứ 3 được tổ chức trong Vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ. Mục tiêu của Toạ đàm là tạo diễn đàn trao đổi, thảo luận giữa lãnh đạo các địa phương, các bộ, ngành, các chuyên gia và nhà khoa học về liên kết phát triển trong tiểu vùng, trên cơ sở đó cung cấp thêm ý tưởng và luận cứ cho việc đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy liên kết tiểu vùng, qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tiểu vùng nói riêng và cả vùng nói chung trong bối cảnh mới. Những đề xuất này sẽ được đưa vào Báo cáo Tổng kết của Đề án và dự thảo Nghị quyết mới về vùng trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong tháng 9/2022.
Quang cảnh Tọa đàm
Với mục đích, ý nghĩa quan trọng như vậy, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Hồng Sơn đề nghị các đại biểu tập trung thảo luận về một số vấn đề đang đặt ra đối với tiểu vùng Bắc Trung bộ, cụ thể:
Tại sao liên kết phát triển tiểu vùng và vùng BTB&DHMT lại khó khăn như vậy? đâu là nguyên nhân và rào cản (nhận thức, cơ chế, chính sách, tổ chức thực hiện hay nguồn lực)?
Làm thế nào để có thể thúc đẩy liên kết phát triển tiểu vùng nói riêng và toàn vùng nói chung? thể chế liên kết tiểu vùng, vùng cần phải như thế nào? Ít nhất là trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam? Theo quy định của Hiến pháp? Theo quy định về phân vùng? Theo quy định của luật về Chính phủ và chính quyền địa phương? Nếu như có cơ chế hội đồng điều phối vùng thì mô hình này cần hoạt động như thế nào trong vùng và ở từng tiểu vùng?
Những ngành, lĩnh vực nào là những ngành, lĩnh vực cần tập trung liên kết trong tiểu vùng để có thể phát huy được ở mức cao nhất các tiềm năng, lợi thế của từng tiểu vùng, toàn vùng?
Với tinh thần đó, Tọa đàm đã thu hút 4 tham luận trực tiếp và nhiều ý kiến trao đổi, phát biểu của các bộ, ngành, địa phương, các viện, đại học. Đặc biệt, phiên Trao đổi, đối thoại chính sách với sự tham gia của các đồng chí Thường trực Tỉnh ủy các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị đã làm sâu sắc thêm những nội dung thảo luận, những vấn đề thực tiễn của từng địa phương như: Tiềm năng, lợi thế của tiểu vùng Bắc Trung bộ và liên kết tiểu vùng Bắc Trung bộ đối với phát triển tiểu vùng Bắc Trung bộ và cả Vùng Duyên hải miền Trung trong bối cảnh mới; Những điểm sáng/tích cực trong liên kết tiểu vùng Bắc Trung bộ. Vì sao cho đến nay liên kết tiểu vùng Bắc Trung bộ nhìn chung được đánh giá là còn chưa thực chất, thiếu hiệu lực và kém hiệu quả? Nguyên nhân chủ yếu; Tổ chức quản lý vùng KT-XH, tiểu Vùng BTB chưa phải là một cấp hành chính nhưng vẫn có đầy đủ quyền điều phối liên kết vùng (cần sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản quy phạm pháp luật)…
Cũng tại phiên trao đổi, đối thoại chính sách, hầu hết đại diện lãnh đạo 5 tỉnh đều thừa nhận: Các hoạt động liên kết vùng vẫn chưa hiệu quả và chưa được như mong muốn. Thậm chí có những vấn đề được xem như “lực cản” và khó chạm đến đó là tư tưởng cục bộ địa phương, mạnh ai người nấy làm, không ai chịu liên kết với ai cũng đã được đại diện các địa phương thẳng thắn đưa ra, phân tích, mong muốn tìm ra hướng liên kết mới.
Phát biểu kết luận, đồng chí Nguyễn Hồng Sơn nhấn mạnh: Tại Tọa đàm, các ý kiến phát biểu đều thống nhất về sự cần thiết và ý nghĩa quan trọng của liên kết tiểu vùng, vùng; tiểu vùng Bắc Trung bộ có vai trò đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và môi trường sinh thái đối với toàn vùng và cả nước. Các ý kiến phát biểu cũng đã chỉ ra những hạn chế trong phát triển và liên kết tiểu vùng như tiểu vùng Bắc Trung bộ vẫn là tiểu vùng kém phát triển trong vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ. Những hạn chế trong phát triển và liên kết tiểu vùng kể trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan nhưng chủ quan vẫn là chủ yếu, có liên quan đến sự thống nhất trong nhận thức; thiếu cơ chế điều phối tiểu vùng và vùng hiệu quả với đủ thẩm quyền và nguồn lực…
Đồng thời, các ý kiến phát biểu cũng đã đưa ra một số gợi ý nhằm đẩy mạnh liên kết vùng, tiểu vùng trong thời gian tới, đó là: (1) Tạo thống nhất cao hơn nữa trong nhận thức về sự cần thiết và tầm quan trọng của liên kết vùng, tiểu vùng. (2) Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng liên kết vùng, tiểu vùng như kết cấu hạ tầng giao thông (đường bộ: cao tốc phía đông, đường ven biển; cảng biển, sân bay); phát triển chuỗi đô thị ven biển. (3) Xây dựng thể chế điều phối liên kết phát triển vùng, tiểu vùng đủ mạnh, có đủ thẩm quyền và nguồn lực. (4) Các lĩnh vực liên kết bao gồm phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông; du lịch; đào tạo nguồn nhân lực, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, bảo vệ môi trường; xây dựng cơ sở dữ liệu và chia sẻ thông tin trong tiểu vùng và vùng…
Đồng chí Nguyễn Hồng Sơn lưu ý, đây là những ý kiến rất tâm huyết, khoa học với nhiều ý tưởng mới, do vậy đề nghị Thường trực Tổ Biên tập Đề án nghiên cứu, chắt lọc đưa vào Báo cáo tổng kết và dự thảo Nghị quyết mới về vùng trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư./.
Trung tâm Thông tin, Phân tích và dự báo kinh tế