1. Xây dựng các quy hoạch, đề án, cơ chế, chính sách theo hướng phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
- Nghệ An đã chỉ đạo xây dựng và phê duyệt các quy hoạch, đề án để tập trung chỉ đạo thực hiện như: Quy hoạch vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tỉnh Nghệ An đến năm 2020; Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tỉnh Nghệ An đến năm 2020; Đề án phát triển cây con chủ yếu; các quy hoạch vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất lúa, lạc, rau củ quả; các quy hoạch vùng chè, mía nguyên liệu ứng dụng công nghệ cao...
Ảnh minh họa
- Tỉnh đã ban hành các văn bản chỉ đạo thực hiện liên quan đến ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất ( Nghị quyết 06-NQ/TU ngày 14/12/2016 của BCH Đảng bộ tỉnh về phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến 2025; Chỉ thị 29/CT-UBND ngày 5/12/2011 của UBND tỉnh về việc đẩy mạnh triển khai thực hiện đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tỉnh Nghệ An đến năm 2020...); ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn, trong đó, có ưu tiên, hỗ trợ ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp (quyết định 08/2015/QĐ-UBND ngày 22/01/2015 về một số chính sách đặc thù khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2015 - 2020; Quyết định số 23/2015/QĐ-UBND, ngày 23/3/2015 về chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư dự án công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2020; số 15/2018/QĐ-UBND, ngày 30/3/2018 về một số chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn; Nghị quyết số 13/2018/NQ-HĐND, ngày 12/12/2018 của HĐND tỉnh ban hành chính sách khuyến khích, phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An...).
2. Thực hiện các mô hình sản xuất theo hướng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
2.1. Về lĩnh vực trồng trọt: dụng các quy trình canh tác tiên tiến như: chương trình “3 giảm, 3 tăng”, canh tác bền vững, phòng trừ dịch hại tổng hợp IPM, ICM, sản xuất theo quy trình VietGAP, hệ thống thâm canh lúa cải tiến SRI…; đồng thời, ứng dụng thành công một số biện pháp kỹ thuật như: kỹ thuật tưới nhỏ giọt trên cây ăn quả và mía; hệ thống tưới nhỏ giọt theo công nghệ Israel kết hợp hệ thống điều khiển tưới tự động, theo dõi các chỉ số (độ ẩm, gió, lượng mưa, độ PH...), tưới phun mưa.
- Về công tác giống: áp dụng giống mới có năng suất cao, thích nghi với điều kiện thời tiết khắc nghiệt, có khả năng chống chịu dịch bệnh vào sản xuất. Chú trọng việc du nhập, trồng khảo nghiệm các giống lúa như: PHB71, 29P31, Thái Xuyên 111, Khải Phong 1… cho năng suất cao, chất lượng gạo ngon, có tính chống chịu cao với các dịch bệnh như rầy nâu, bạc lá, đạo ôn; các giống mía như: QĐ93-159, ROC16, ROC27, LG2, LK92-11… năng suất cao trên 100 tấn/ha; sử dụng các giống ngô có tiềm năng năng suất cao, chất lượng tốt như: DK 6818, NK6654, LVN14, 30Y87, P4199, DK9901.
- Chú trọng xây dựng các hệ thống khép kín nhà màng, nhà lưới để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Chương trình cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh, tỷ lệ cơ giới hóa trong các khâu sản xuất tăng nhanh. Đã tăng cường chuyển đổi mạnh về cơ cấu cây trồng, mùa vụ, áp dụng tiến bộ kỹ thuật về giống, công nghệ cao nhằm tăng năng suất, chất lượng, giảm giá thành và thích ứng với biến đổi khí hậu.
2.2. Về lĩnh vực chăn nuôi
- Trong sản xuất giống vật nuôi đã ứng dụng thành công kỹ thuật truyền tinh nhân tạo để phối giống cho lợn, trâu bò và gia cầm; ứng dụng công nghệ cấy truyền phôi, tinh phân ly giới tính trong chăn nuôi bò sữa.
- Ứng dụng công nghệ, công nghệ cao trong chăn nuôi: công nghệ tự động hóa trong cho ăn (Silo cám dây chuyển tự động), công nghệ chuồng lạnh trong chăn nuôi lợn, gà; công nghệ chuồng trại có khả năng bức xạ nhiệt mặt trời làm giảm nhiệt độ chuồng nuôi; các công nghệ chế biến thức ăn…; số trang trại chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn GAHP, hữu cơ chiếm khoảng 25%.
- Xây dựng hàng trăm mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm an toàn sinh học, theo hướng GAHP, VietGAHP nâng cao hiệu quả kinh tế: Mô hình chăn nuôi lợn an toàn sinh học, thực hành chăn nuôi lợn thịt theo hướng GAHP có sử dụng đệm lót sinh học tại Đô Lương, Quỳ Hợp, Tương Dương, Nam Đàn; mô hình vỗ béo trâu, bò thịt, chăn nuôi bò cái sinh sản, dê thịt thương phẩm, nuôi nhốt bò thịt kết hợp trồng cỏ, chế biến phế phụ phẩm như ủ chua thức ăn, rơm ủ ure làm thức ăn cho trâu bò; mô hình ứng dụng thụ tinh nhân tạo giống bò thịt chất lượng cao (bò BBB, Red Angus…); mô hình chăn nuôi gà thịt, gà sinh sản theo VietGAHP sử dụng đệm lót sinh học tại Anh Sơn, Tân Kỳ; chăn nuôi gà bằng thức ăn thảo dược.
2.3. Về lĩnh vực thủy sản
- Trong sản xuất giống thủy sản ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nuôi tôm theo hướng thâm canh, siêu thâm canh như mô hình nuôi tôm trong bể xi măng, mô hình nuôi tôm 2 giai đoạn, nuôi tôm Semi - Biofloc, nuôi tôm VietGAP, nuôi tôm trong nhà màng... Nhiều công nghệ mới được áp dụng vào sản xuất giống như hệ thống lọc và khử trùng nước bằng tia cực tím, hệ thống nâng nhiệt...
- Áp dụng các kỹ thuật mới trong nuôi cá lồng công nghệ cao ở các hồ đập lớn trên địa bàn tỉnh. Nhiều đối tượng nuôi mới và mô hình nuôi thủy sản nước ngọt mới được áp dụng vào sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao như mô hình nuôi cá “Sông trong ao”, nuôi cá rô phi lai xa dòng Israel, cá chép V1, trắm giòn, chép giòn.
- Ứng dụng công nghệ trong khai thác thủy sản: Hầu hết tàu cá khai thác hải sản, nhất là đội tàu khai thác xa bờ đều được lắp đặt đầy đủ các trang thiết bị hàng hải như máy dò cá, máy định vị giám sát hành trình, máy thông tin liên lạc... Ngoài ra, ngư dân đã quan tâm ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào hoạt động khai thác như máy tời thủy lực, hầm bảo quản PU, đèn led… góp phần nâng cao hiệu quả của mỗi chuyến biển.
2.4. Về lĩnh vực lâm nghiệp
- Trong sản xuất giống cây lâm nghiệp đã từng bước phát triển và ứng dụng công nghệ tế bào, di truyền phân tử trong chọn tạo giống và nhân giống. Toàn tỉnh hiện có 34 vườn ươm áp dụng hệ thống tưới điều khiển tự động hoặc bán tự động, tưới phun mưa, tưới nhỏ giọt; một số vườn ươm đã ứng dụng công nghệ nhà kính, nhà lưới, nhà màng và sử dụng vật liệu mới trong việc dâm hom.
- Ứng dụng công nghệ viễn thám, công nghệ thông tin (thiết bị điện tử, điện thoại, máy tính bảng) và hệ thống thông tin địa lý (GIS) trong điều tra, kiểm kê và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng; áp dụng phần mềm Smart và các công cụ giám sát chuyên ngành để giám sát đa dạng sinh học được tại Vườn quốc gia Pù Mát và 2 khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống, Pù Hoạt; áp dụng hệ thống WebGIS để theo dõi cảnh báo cháy rừng.
- Hiện nay, khu lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao vùng Bắc Trung Bộ tại tỉnh Nghệ An, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cho phép thành lập tại Quyết định 509/QĐ-TTg, ngày 31/3/2021 - đây sẽ là mô hình giúp phát huy các tiềm năng, lợi thế của tỉnh trong phát triển lâm nghiệp, qua đó, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
3. Chú trọng thu hút các dự án đầu tư phát triển sản xuất và chế biến sản phẩm nông nghiệp
Tỉnh đã tập trung thu hút được nhiều tập đoàn, nhà đầu tư lớn trong lĩnh vực nông nghiệp đầu tư các dự án phát triển sản xuất và chế biến nông, lâm, thủy sản có công nghệ hiện đại, theo chuỗi sản phẩm có giá trị gia tăng cao như: Dự án chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập trung của Công ty CP Thực phẩm sữa TH; Dự án chăn nuôi bò sữa tập trung quy mô công nghiệp tại Nghệ An của Vinamilk; Dự án trồng và chế biến chè chất lượng cao; Dự án nhà máy chế biến tinh bột sắn Hoa Sơn; Dự án đầu tư chăn nuôi bò thịt và bò giống tại tỉnh Nghệ An; Dự án đầu tư trang trại chăn nuôi lợn của tập đoàn Masan; Dự án nhà máy chế biến gỗ MDF tại Nghệ An; Nhà máy chế biến cá hộp Nghệ An của Tập đoàn Royal Foods; Dự án đầu tư ươm giống thuỷ sản của Tập đoàn Việt - Úc.
Đặc biệt là chuỗi các dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của Tập đoàn TH đầu tư tại Nghĩa Đàn và các huyện ven đường Hồ Chí Minh (Dự án chăn nuôi và chế biến sữa quy mô công nghiệp tập trung TH, vốn đầu tư 1,2 tỷ USD; Dự án trồng rau và hoa trong nhà kính, vốn đầu tư 2.423 tỷ đồng; Dự án Nhà máy gỗ Nghệ An, vốn đầu tư 1.896 tỷ đồng; Dự án bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu chất lượng cao gắn với phát triển rừng bền vững tại Nghệ An, vốn đầu tư giai đoạn 1 là 2.743 tỷ đồng; Nhà máy nước tinh khiết và nước hoa quả Núi Tiên, vốn đầu tư 1.176 tỷ đồng; Dự án Nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi công nghệ cao, vốn đầu tư 326,4 tỷ đồng…) đang là những điểm sáng trên vùng đất miền Tây Nghệ An, với cách làm điển hình về ứng dụng công nghệ cao, theo chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến đến thị trường tiêu thụ, thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng “xanh hóa” nền kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội địa phương; đồng thời, làm tiền đề thu hút nhiều dự án khác vào đầu tư trên địa bàn tỉnh.
4. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới với cách làm sáng tạo, được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân trong toàn tỉnh
Xác định xây dựng nông thôn mới là việc làm thường xuyên, liên tục, có điểm khởi đầu nhưng không có điểm kết thúc. Từ năm 2016, Nghệ An đã chủ động xây dựng bộ tiêu chí Nông thôn mới kiểu mẫu cấp xã, để các xã hoàn thành bộ tiêu chí nông thôn mới có điều kiện tiếp tục phấn đấu. Đồng thời, nhận thấy ở miền núi việc xây dựng nông thôn mới là rất khó khăn, nhất là phát triển sản xuất và cơ sở hạ tầng, nên tỉnh Nghệ An đã triển khai xây dựng bộ tiêu chí nông thôn mới cấp thôn, bản, để các thôn, bản có điều kiện phấn đấu.
Khi tỉnh đưa ra chủ trương này đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tại các huyện, xã miền núi, đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số. Đến nay, toàn tỉnh đã có 944 thôn bản đạt chuẩn nông thôn mới (trong đó có 208 thôn/bản tại các xã chưa đạt chuẩn). Đây thực sự là một cách làm mới, sáng tạo của Nghệ An, góp phần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền, đồng thời, tạo động lực bứt phá cho các thôn bản tại các vùng khó khăn.
Trong quá trình xây dựng nông thôn mới, giai đoạn đầu một số địa phương còn chạy theo thành tích, việc xây dựng cơ sở hạ tầng thường ít quan tâm đến cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp và tính bền vững. Vì thế, tỉnh Nghệ An đã triển khai nhiều giải pháp để xây dựng nông thôn mới một cách bền vững như: tổ chức cuộc thi “Xã nông thôn mới đẹp” (năm 2018), nhằm tạo phong trào xây dựng nông thôn mới hài hòa, tránh bê tông hóa và có nét đẹp tổng thể cả hình thức lẫn nội dung; triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới gắn với Chương trình mỗi xã một sản phẩm OCOP, phát triển các sản phẩm chủ lực gắn với phát triển kinh tế của địa phương; chú trọng thực hiện 3 ”không” trong xây dựng nông thôn mới, đó là “Không chạy theo thành tích; không nợ đọng xây dựng nông thôn mới; không huy động quá sức dân”.
Bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn một số tồn tại, hạn chế :
1. Sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh đang tập trung chủ yếu về giống và một số khâu sản xuất, chưa đồng bộ trong toàn bộ quy trình sản xuất, nên hiệu quả mang lại chưa cao. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ chiếm tỷ trọng còn khiêm tốn, chưa thực sự trở thành động lực cho sự phát triển. Diện tích nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao còn thấp (chiếm dưới 10% tổng diện tích sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh). Việc kết nối, mở rộng thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm nông nghiệp nói chung và sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, chưa thực sự tìm được thị trường bền vững cho các sản phẩm nông nghiệp.
2. Xây dựng nông thôn mới còn tồn tại một số vấn đề, như kết quả thực hiện xây dựng nông thôn mới giữa các vùng, miền còn chênh lệch khá lớn; một số địa phương còn nặng về hình thức, chưa quan tâm nhiều đến chất lượng của việc đạt chuẩn; một số xã còn nặng ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng, chưa qua tâm đúng mức đến phát triển sản xuất, bảo vệ môi trường, nâng cao thu nhập cho người dân đảm bảo tính bền vững.
Một số bài học kinh nghiệm
1. Về cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao
- Xác định vai trò chủ thể của doanh nghiệp, đơn vị kinh tế hợp tác và hộ nông dân.
- Quan tâm đến công tác quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm việc phát triển sản phẩm nông nghiệp phù hợp với điều kiện sinh thái từng địa phương và đáp ứng nhu cầu thị trường.
- Từng giai đoạn cần đánh giá, sơ kết chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp tiếp theo phù hợp với điều kiện mới.
- Nâng cao vai trò doanh nghiệp, hợp tác xã trong dẫn dắt phát triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Quan tâm công tác định hướng thị trường, mở rộng liên kết sản xuất gắn với thị trường tiêu thụ.
- Kịp thời đề xuất với các bộ, ngành Trung ương về định hướng quy hoạch, các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
2. Về xây dựng nông thôn mới
- Xác định xây dựng nông thôn mới là thực hiện các nội dung cụ thể hóa việc hiện đại hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn. Gắn xây dựng nông thôn mới với tái cơ cấu ngành nông nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Phát huy vai trò chủ thể của người dân; xác định công tác tuyên truyền vận động quần chúng có vai trò quan trọng hàng đầu, qua đó làm cho dân hiểu, dân tin, dân hưởng ứng tham gia hiến kế, đóng góp và chủ động thực hiện các nhiệm vụ của mình, từ đó tạo nên sự thành công của Chương trình.
- Phải có cách làm phù hợp theo điều kiện của từng địa phương, lựa chọn nội dung, nhiệm vụ ưu tiên, vận dụng sáng tạo cơ chế chính sách; có phương thức huy động nguồn lực phù hợp.
- Chỉ đạo phải đồng bộ, hiệu quả, có hệ thống, có bộ máy giúp việc chuyên nghiệp, sát thực tế là yếu tố quan trọng đối với công tác chỉ đạo thực hiện Chương trình.
- Thực hiện lồng ghép có hiệu quả các nguồn lực; lấy nguồn lực hỗ trợ từ ngân sách là "vốn mồi"; đồng thời, chú trọng đa dạng hóa các nguồn lực thực hiện chương trình; việc huy động người dân tham gia thực hiện chương trình phải thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bàn bạc dân chủ, qua đó, người dân đồng tình, hưởng ứng thực hiện.
(Cẩm Tú - tổng hợp từ Kỷ yếu Hội thảo “
Phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh tỉnh Nghệ An
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045)