Một số giải pháp thu hút nguồn lực cho đầu tư phát triển Nghệ An trong thời gian tới
Mục tiêu đến năm 2030, Nghệ An trở thành tỉnh khá của cả nước, kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững.
Ảnh minh họa. Nguồn: Báo Nghệ An
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương, tỉnh Nghệ An đã tập trung ưu tiên nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng; nỗ lực cải thiện thực chất môi trường đầu tư kinh doanh; tăng cường thu hút đầu tư, trong đó trọng tâm ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, để đạt được những mục tiêu phát triển về kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo đảm quốc phòng, an ninh đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 thì Nghệ An phải thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu như: Khai thác, huy động, phân bổ, quản lý, sử dụng và phát huy có hiệu quả các nguồn lực đầu tư phát triển được xem là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, trong đó cần tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn, bảo đảm các nguồn lực được khơi thông, giải phóng tối đa, vận hành thông suốt, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư phát triển. Cụ thể:
Thứ nhất, tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 36/2021/QH15, ngày 13/11/2021 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An. Đồng thời, trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị, tổ chức rút kinh nghiệm, tiếp tục nghiên cứu, đề xuất xây dựng bổ sung các cơ chế, chính sách đặc thù phù hợp nhằm huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển tỉnh Nghệ An đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo tinh thần Nghị quyết mới của Bộ Chính trị.
Thứ hai, Tăng cường công tác quy hoạch, tổ chức thực hiện hiệu quả Quy hoạch tỉnh Nghệ An thời kỳ 2021 -2030, tầm nhìn đến năm 2050, bảo đảm tuân thủ các định hướng của quy hoạch Vùng, hệ thống quy hoạch quốc gia; tổ chức, sắp xếp không gian các hoạt động kinh tế - xã hội phù hợp để bảo đảm phát triển nhanh, bền vững các ngành, lĩnh vực; kết nối liên vùng, liên ngành; có trọng tâm, trọng điểm và lộ trình hợp lý. Tập trung rà soát, nâng cao chất lượng, kiểm soát chặt chẽ việc lập, thẩm định các loại quy hoạch theo quy định bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất với quy hoạch tỉnh. Trên cơ sở các Quy hoạch tỉnh được duyệt, tập trung rà soát, điều chỉnh, bổ sung các chương trình, đề án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội bảo đảm phù hợp để triển khai thực hiện có hiệu quả.
Rà soát, đánh giá để có điều chỉnh, bổ sung hợp lý các quy hoạch phù hợp với tình hình thực tiễn, yêu cầu và xu thế phát triển, nhất là xử lý các nội dung bất cập, phát sinh trong thực tiễn bảo đảm khoa học, hiệu quả, có kế thừa và phát triển. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện quản lý, điều hành phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật, đô thị theo quy hoạch được duyệt. Cập nhật, đánh giá, quản lý, lưu trữ, công bố, khai thác, sử dụng thông tin quy hoạch thông qua hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia về quy hoạch. Thiết lập hệ thống theo dõi - đánh giá thực hiện quy hoạch; phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội trong giám sát thực hiện quy hoạch đảm bảo hiệu quả, đúng quy định.
Thứ ba, Giải pháp thu hút nguồn lực từ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng chủ yếu dựa vào khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phát triển các sản phẩm có lợi thế so sánh, giá trị gia tăng cao, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, cơ cấu lao động sang những ngành, lĩnh vực có năng suất, hiệu quả cao.
- Đối với lĩnh vực nông nghiệp, phát triển nông thôn: Tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; phát triển nền nông nghiệp hiệu quả, bền vững theo hướng nông nghiệp hiện đại, xanh, sạch, sinh thái, từng bước thích ứng với biến đổi khí hậu thông qua việc ứng dụng các quy trình, công nghệ mới, thông minh, sử dụng hợp lý, tiết kiệm vật tư đầu vào, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên. Tiếp tục cơ cấu lại nông nghiệp theo các nhóm sản phẩm chủ lực và vùng sinh thái của tỉnh để hình thành các vùng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và chế biến; thúc đẩy liên kết, hợp tác theo chuỗi giá trị nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng của sản phẩm và năng lực cạnh tranh trên thị trường. Tăng cường huy động nguồn lực xây dựng hạ tầng sản xuất nông nghiệp, nhất là các công trình, dự án phục vụ cơ cấu lại nông nghiệp, ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Đối với lĩnh vực công nghiệp: Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành công nghiệp và chuyển đổi cơ cấu sản phẩm theo hướng hiện đại, phát triển nhanh và bền vững. Ưu tiên phát triển một số ngành một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao, hiện đại; các ngành có khả năng tham gia sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, tạo ra giá trị gia tăng cao và có tác động lan tỏa tới các ngành kinh tế khác. Tập trung phát triển một số ngành công nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất cơ bản của nền kinh tế, như: công nghiệp năng lượng, cơ khí chế tạo, hóa chất, sản xuất vật liệu xây dựng sử dụng công nghệ mới. Tiếp tục phát triển hợp lý một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động nhằm tạo việc làm và thu nhập cho nhân dân. Tạo điều kiện để các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong nước, các doanh nghiệp khởi nghiệp, sáng tạo đầu tư phát triển các ngành có tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Phân bố không gian công nghiệp hợp lý gắn với các hành lang kinh tế, hình thành các vùng sản xuất công nghiệp, trọng tâm là tại địa bàn Khu Kinh tế Đông Nam, các khu công nghiệp ngoài khu kinh tế và các cụm công nghiệp tại địa bàn các huyện, thành phố, thị xã. Phân chia thành 04 tiểu vùng với các lĩnh vực thế mạnh để tập trung thu hút nguồn lực đảm bảo hiệu quả: Khu vực thành phố Vinh và các huyện ven biển dọc Quốc lộ 1A gắn với KKT Đông Nam và vùng Bắc Nghệ An - Nam Thanh Hóa, Nam Nghệ An - Bắc Hà Tĩnh; các huyện vùng đồng bằng còn lại; Khu vực các huyện miền Tây dọc tuyến đường Hồ Chí Minh và vùng phụ cận và Khu vực miền núi cao.
- Thu hút nguồn lực từ phát triển các ngành dịch vụ: Đa dạng các loại hình dịch vụ theo hướng hiện đại, bền vững, bảo đảm các dịch vụ cơ bản với chất lượng ngày càng cao phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, phát huy hiệu quả tiềm năng, lợi thế, sáng tạo, ứng dụng hiệu quả thành tựu khoa học, công nghệ trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, đưa Nghệ An trở thành trung tâm thương mại, dịch vụ của khu vực Bắc Trung Bộ. Chuyển dịch cơ cấu khu vực dịch vụ theo hướng tăng nhanh các dịch vụ chủ lực; hình thành các phân ngành, các sản phẩm dịch vụ mới, dịch vụ cao cấp có giá trị gia tăng cao; ưu tiên tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao. Tận dụng tối đa lợi thế về nguồn lực vị trí địa lý, văn hóa truyền thống để phát triển du lịch bền vững theo hướng chuyên nghiệp, chất lượng, chú trọng phát triển du lịch nghỉ dưỡng biển, du lịch văn hóa, du lịch sinh thái cộng đồng; gắn phát triển du lịch với bảo tồn, phát huy giá trị di sản và bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Phát triển thương mại theo hướng văn minh, hiện đại, tăng trưởng nhanh và bền vững, thương mại điện tử dần trở thành hình thức thương mại chủ đạo bên cạnh các loại hình thương mại truyền thống phù hợp với xu thế phát triển; xây dựng và phát triển các thương hiệu hàng hóa của tỉnh mang tầm quốc gia và quốc tế; hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia các chương trình xúc tiến thương mại ở nước ngoài để tìm kiếm thị trường, khách hàng, giới thiệu quảng bá sản phẩm. Rà soát nhu cầu cần thiết để đầu tư xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo theo mô hình chợ văn minh thương mại, an toàn thực phẩm, chú trọng phát triển hạ tầng thương mại, cửa hàng tiện lợi tại những khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa và hải đảo. Phát triển dịch vụ vận tải, kho bãi, logistics đa dạng, hiện đại, trở thành ngành dịch vụ chủ lực; khai thác có hiệu quả các loại hình vận tải đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển; áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải; nâng cấp hệ thống kho bãi, bảo quản hàng hóa, dịch vụ hậu cần, nhất là tại các bến cảng; xây dựng trung tâm logistics hạng II tại Khu kinh tế Đông Nam và một số trung tâm logistics vừa và nhỏ tại các huyện, thành phố, thị xã. Các dịch vụ tài chính, ngân hàng được chuyển dần từ mô hình kinh doanh truyền thống sang mô hình kinh doanh, cung ứng sản phẩm, dịch vụ trên nền tảng số; đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, chú trọng phát triển thanh toán điện tử phục vụ thương mại điện tử.
- Thu hút nguồn lực từ phát triển kinh tế biển, nâng cao sức cạnh tranh của các ngành kinh tế biển trọng yếu để thúc đẩy phát triển kinh tế của tỉnh đồng thời phát huy vai trò lan tỏa của dải động lực phát triển ven biển đối với vùng trung du, miền núi phía Tây; phát triển kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, hệ sinh thái biển, gắn với việc giữ gìn giá trị, phát huy truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa biển đi đôi với xây dựng, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đẩy mạnh thu hút nguồn lực từ phát huy lợi thế vào các ngành thế mạnh: (1) Du lịch biển; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Công nghiệp ven biển; (4) Nuôi trồng và khai thác hải sản; (5) Khai thác khoáng sản biển; ... Trong đó, lấy phát triển du lịch, kinh tế hàng hải và công nghiệp ven biển là các lĩnh vực đột phá; lấy Khu kinh tế Đông Nam (mở rộng) làm lãnh thổ trọng điểm cho phát triển kinh tế biển; thu hút nguồn lực từ hợp tác vùng và hợp tác quốc tế làm đòn bẩy để đẩy mạnh phát triển.
Thứ tư, Xây dựng và thực hiện hiệu quả các cơ chế, chính sách huy động nguồn lực đầu tư từ các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước theo phương châm “Xã hội hóa các nguồn lực, đa dạng hóa các hình thức đầu tư”.
Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư công theo hướng đầu tư có trọng tâm, trọng điểm thông qua xây dựng, thực hiện tốt kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm bảo đảm theo đúng quy định, phù hợp với các nguyên tắc, tiêu chí và thực tiễn phát triển. Ưu tiên các công trình kết cấu hạ tầng có tính chất cấp bách, dự án trọng điểm bảo đảm tính đồng bộ, kết nối liên vùng và lan tỏa đến phát triển kinh tế - xã hội các địa phương, các ngành, lĩnh vực, nhất là hệ thống hạ tầng giao thông, các công trình hạ tầng thiết yếu trong Khu kinh tế Đông Nam và các khu, cụm công nghiệp; sắp xếp thứ tự ưu tiên và lộ trình trong đầu tư phù hợp cho từng dự án để tập trung cao độ nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ thực hiện, hạn chế tối đa việc kéo dài vốn; thực hiện lồng ghép các nguồn vốn để đầu tư dự án có hiệu quả. Nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị dự án từ sớm, từ xa để đảm bảo tập trung và phát huy hiệu quả nguồn lực trong quá trình thực hiện. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch đầu tư công và thực hiện các chương trình, dự án đầu tư một cách công khai, minh bạch, bảo đảm việc huy động, sử dụng nguồn vốn đầu tư công đúng mục đích, hiệu quả triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, phòng chống tham nhũng trong quản lý, sử dụng vốn đầu tư công. Đồng thời tăng tốc giải ngân vốn đầu tư công để phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong dài hạn; tổ chức kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, trong đó tập trung các dự án lớn, các dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài; chủ động thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng để triển khai thi công đúng tiến độ.
Tăng cường thực hiện hình thức đầu tư đối tác công tư (PPP) với việc tạo lập cơ chế chia sẻ rủi ro giữa nhà nước và nhà đầu tư theo hướng bảo đảm hài hòa lợi ích của nhà nước, nhà đầu tư và xã hội để đẩy nhanh phát triển kết cấu hạ tầng, coi đây là giải pháp đột phá để đẩy nhanh tốc độ hiện đại hóa kết cấu hạ tầng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; huy động xã hội hóa các công trình công cộng, dịch vụ, tiện ích xã hội...
Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao năng lực thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn lực bên ngoài; hấp thu và chuyển hóa nguồn lực bên ngoài bao gồm vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nguồn vay Chính phủ, nguồn viện trợ phi chính phủ (NGO), kiều hối... để biến thành nội lực. Đồng thời, triển khai kịp thời, hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) nhằm đón đầu làn sóng dịch chuyển đầu tư nước ngoài đến Việt Nam sau đại dịch Covid-19, tạo sức bật phát triển kinh tế địa phương.
Thứ năm, Thực hiện sáng tạo, hiệu quả các giải pháp tăng thu ngân sách, nuôi dưỡng, phát triển nguồn thu bền vững ở cả 3 cấp ngân sách, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, chống thất thu và nợ đọng thuế. Giám sát chặt chẽ các khoản chi từ ngân sách nhà nước, bảo đảm triệt để tiết kiệm, chống lãng phí; phấn đấu giảm tỷ trọng chi thường xuyên để tăng chi cho đầu tư phát triển. Thực hiện hiệu quả các chính sách tài khóa, điều hành ngân sách linh hoạt, các chính sách tài chính về đất đai, khai thác tài nguyên theo hướng bền vững, bảo đảm thực hiện đúng các quy định. Thực hiện nghiêm các quy định về quản lý, sử dụng tài sản công.
Thứ sáu, Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh gắn với đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giảm các thủ tục qua các bước; tăng cường mạnh mẽ phân quyền, phân cấp cho các Ban ngành, Ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý. Nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, trong đó tập trung cải thiện các chỉ số thành phần của chỉ số PCI đang còn ở vị trí thấp so với bình quân của cả nước; tiếp tục triển khai đánh giá năng lực cạnh tranh cấp huyện và các sở, ngành (DDCI). Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về mặt bằng đất đai, hạ tầng, nguồn nhân lực, nhất là nhân lực được đào tạo nghề để đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư.
Tăng cường hỗ trợ, đồng hành cùng các nhà đầu tư hạ tầng đang triển khai tại địa bàn để chuẩn bị sẵn sàng cho những làn sóng đầu tư mới, đặc biệt là dòng đầu tư từ các quốc gia trong khu vực và các tập đoàn đa quốc gia. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, hình thức xúc tiến đầu tư theo hướng chủ động, đồng bộ, chuyên nghiệp, hiệu quả; phối hợp chặt chẽ hoạt động xúc tiến đầu tư với xúc tiến thương mại, du lịch. Trong hoạt động xúc tiến đầu tư cần bám sát nguyên tắc: Chủ động thu hút có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Chủ động nắm bắt, tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư, hỗ trợ thúc đẩy phát triển doanh nghiệp. Rà soát tổng thể các dự án đầu tư trên địa bàn toàn tỉnh làm cơ sở dữ liệu về thu hút đầu tư, xử lý các dự án chậm tiến độ, tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư trên địa bàn tỉnh, kiên quyết chấm dứt hoạt động, thu hồi đất các dự án chậm tiến độ, không triển khai, tăng quỹ đất để thu hút các nhà đầu tư khác có năng lực.
Cẩm Tú (tổng hợp)