Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Kinh tế Trung ương đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương trong vùng triển khai Đề án tổng kết thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 14/9/2005 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng. Ban Kinh tế Trung ương đã thành lập Ban Chỉ đạo triển khai Đề án với sự tham gia tích cực của 20 Bộ, ngành và 11 địa phương trong vùng. Ban Chỉ đạo đã nỗ lực triển khai Đề án trong thời gian rất gấp; đã hoàn thành Báo cáo tổng kết 17 năm thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp từ Báo cáo của các Bộ, ngành và địa phương trong vùng, các kết quả nghiên cứu chuyên sâu, khảo sát thực tế, các ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học tại các hội nghị, hội thảo, tọa đàm. Ban Chỉ đạo đã trình Bộ Chính trị xem xét, thông qua và Đồng chí Tổng Bí thư đã ký ban hành Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương phát biểu chỉ đạo Hội thảo về tổng kết
Nghị quyết 54-NQ/TW tại ĐH Quốc gia Hà Nội
Việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 30-NQ/TW thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng đối với sự phát triển của vùng; đáp ứng nguyện vọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân toàn vùng trong bối cảnh tình hình mới. Nghị quyết là cơ sở chính trị quan trọng để xây dựng các cơ chế, chính sách mới nhằm khai thác và phát huy cao nhất mọi tiềm năng, lợi thế để vùng và các địa phương trong vùng phát triển nhanh, bền vững trong thời gian tới.
Nghị quyết số 30-NQ/TW được xây dựng trên cơ sở kế thừa Nghị quyết số 54-NQ/TW; cụ thể hóa các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và các Nghị quyết của Trung ương; xét bối cảnh tình hình mới trong nước và quốc tế, nhất là sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, các vấn đề an ninh truyền thống, phi truyền thống và phát huy tiềm năng, lợi thế của vùng. Toàn văn Nghị quyết số 30-NQ/TW và Báo cáo tổng kết Nghị quyết số 54-NQ/TW đã được gửi tới các đồng chí. Tại Hội nghị hôm nay, Tôi xin giới thiệu với các đồng chí những nội dung cơ bản của Nghị quyết.
Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương chủ trì Hội thảo
về tổng kết Nghị quyết 54 tại ĐH Quốc gia Hà Nội
Sau hơn 17 năm thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW, các tỉnh, thành vùng đồng bằng Sông Hồng đã thực hiện và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng. Theo đó, Nghị quyết số 30-NQ/TW đã khẳng định: Các cấp, các ngành nhất là các địa phương trong vùng đã nhận thức ngày càng rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của vùng và tổ chức triển khai nghiêm túc, hiệu quả, khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế của vùng. Vùng đồng bằng sông Hồng tiếp tục khẳng định vai trò là vùng kinh tế động lực, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của cả nước. Một số địa phương phát triển bứt phá, trở thành điểm sáng trong vùng và cả nước. Kinh tế vùng tăng trưởng khá, chất lượng được cải thiện, bình quân giai đoạn 2005 - 2020 đạt 7,94%/năm, cao hơn bình quân cả nước; quy mô kinh tế tăng nhanh, năm 2020 đạt 2,37 triệu tỷ đồng, chiếm 29,4% GDP cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt 103,6 triệu đồng/năm, gấp 1,3 lần bình quân cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ giữ vai trò trụ cột. Thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) tăng mạnh. Đô thị phát triển nhanh, tỷ lệ đô thị hóa trên 41%. Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt thành tựu nổi bật, 99,2% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Kinh tế biển phát triển khá, đặc biệt Hải Phòng và Quảng Ninh dần trở thành trung tâm kinh tế biển lớn. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ phát triển mạnh mẽ, đi đầu trong thực hiện các đột phá chiến lược và đổi mới mô hình tăng trưởng. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tập trung đầu tư và phát triển khá đồng bộ, hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông; phát huy tốt vai trò của các hành lang, vành đai kinh tế. Quản lý, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường được chú trọng; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu.
Song song với phát triển kinh tế, lĩnh vực văn hóa - xã hội được quan tâm phát triển; các giá trị văn hóa truyền thống của vùng đồng bằng sông Hồng gắn với lịch sử ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta được bảo tồn và phát huy; quy mô, chất lượng giáo dục - đào tạo và y tế được nâng lên rõ rệt. Nguồn nhân lực cơ bản đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ tăng nhanh. Khoa học - công nghệ được ứng dụng mạnh mẽ, góp phần nâng cao năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh. Đời sống của người dân trong vùng được nâng lên rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước được nâng cao. Trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; quốc phòng, an ninh được giữ vững; bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia. Những thành tựu đạt được đã khẳng định Nghị quyết 54-NQ/TW đã thực sự đi vào cuộc sống.
Đồng chí Nguyễn Duy Hưng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng Ban chỉ đạo phát biểu tại buổi làm việc tại Nam Định
Tuy nhiên, bên cạnh đánh giá các kết quả đạt được, Nghị quyết 30-NQ/TW của Bộ Chính trị cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng, cụ thể: Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế còn chậm; các địa phương phát triển không đồng đều, chất lượng tăng trưởng chưa cao, phụ thuộc nhiều vào vốn và lao động. Cơ cấu thu ngân sách Nhà nước ở một số địa phương chưa bền vững. Công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, nhất là quy hoạch đô thị; tình trạng quy hoạch “treo”, dự án “treo” khá phổ biến; các khu công nghiệp thiếu liên kết, chưa hình thành được các cụm liên kết ngành. Hệ thống đô thị phát triển chưa hợp lý, thiếu bền vững; việc cải tạo chung cư cũ và di dời các trường đại học, bệnh viện ra khỏi trung tâm Hà Nội gặp nhiều khó khăn; phát triển nhà ở xã hội chưa đáp ứng yêu cầu. Đầu tư công còn dàn trải, hiệu quả chưa cao, nhiều dự án chậm tiến độ, thua lỗ kéo dài. Khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực cho phát triển. Quản lý đất đai, tài nguyên còn nhiều hạn chế; ô nhiễm môi trường ngày càng phức tạp. Phát triển văn hoá - xã hội nhiều mặt còn bất cập; nội dung, chương trình giáo dục chậm đổi mới, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; y tế cơ sở chất lượng còn yếu, tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến cuối chậm khắc phục. Liên kết, hợp tác giữa các địa phương trong vùng chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp. Nhiệm vụ phát triển thành phố Nam Định thành đô thị hạt nhân của tiểu vùng Nam đồng bằng sông Hồng và xây dựng Khu kinh tế tổng hợp Vân Đồn, Quảng Ninh chưa hoàn thành. Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và năng lực quản lý Nhà nước ở một số địa phương còn hạn chế. An ninh trật tự còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp.
Nghị quyết số 30-NQ/TW đã chỉ ra những nguyên nhân chính của những hạn chế trong phát triển vùng thời gian qua như: Nhận thức về vị trí, vai trò của vùng và phát triển vùng chưa đầy đủ; thể chế, liên kết vùng chậm được đổi mới. Thiếu cơ chế, chính sách gắn kết giữa mục tiêu phát triển của địa phương với mục tiêu chung của vùng. Chất lượng quy hoạch vùng và địa phương trong vùng thấp, thiếu liên kết; tình trạng tuỳ tiện trong điều chỉnh quy hoạch diễn ra khá phổ biến. Nguồn lực bố trí thực hiện các công trình, dự án có tính liên kết vùng gặp khó khăn. Phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương có lúc, có nơi chưa kịp thời, thiếu chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. Năng lực, trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm người đứng đầu ở một số cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương.
Bài 2: Quan điểm và mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế