Một số nội dung về phát triển kinh tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ và toàn thể nhân dân ta, phải làm thế nào để nông thôn tiến kịp thành thị, miền núi tiến kịp miền xuôi về mọi mặt, nền kinh tế phát triển bền vững, tự chủ, đồng bào ai cũng được ấm no, hạnh phúc. Theo Người, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội. Muốn tăng trưởng kinh tế nhanh, mạnh và vững chắc, phải sử dụng hợp lý các động lực phát triển kinh tế; muốn đẩy mạnh tiến bộ xã hội, phải thực hiện thi đua yêu nước. Việc sử dụng các động lực phát triển kinh tế còn là chính sách để thực hiện công bằng xã hội. Công bằng xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ biểu hiện như là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà còn là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, một biện pháp căn bản để hiện thực hóa những giá trị, lý tưởng cao cả của xã hội văn minh, tiến bộ. Đây là một trong những nét đặc sắc trong tư duy kinh tế Hồ Chí Minh.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc thực hiện công bằng xã hội luôn là một yêu cầu bức thiết của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế nước ta còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn (những năm 60 của thế kỷ XX). Người khẳng định: - “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”(1). Để phát triển kinh tế nhanh, mạnh và vững chắc, theo Người, chúng ta có thể áp dụng các động lực kinh tế, như thực hiện công bằng xã hội, chính sách tiền lương, tiền thưởng, chính sách khoán, thực hành tiết kiệm, huy động nguồn vốn nội lực, cải cách hành chính, thực hiện công bằng trong lưu thông phân phối,… Trong đó:
Thứ nhất, thực hiện công bằng xã hội là một động lực kinh tế rất quan trọng, có tính quyết định để tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế, cải tiến kỹ thuật và cải tiến trong công tác quản lý. Công bằng xã hội ở đây không phải là công bằng chung chung, không phải là sự cào bằng bình quân chủ nghĩa, mà là công bằng về quyền công dân, quyền làm chủ xã hội, công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật. Một khi đã thực hiện được công bằng xã hội thì người lao động sẽ nhận rõ quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với xã hội, đồng thời cũng thể hiện được mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể. Thực hiện công bằng xã hội trong phát triển kinh tế chính là động lực để thúc đẩy, phát huy hết mọi tiềm năng, sức mạnh của cá nhân và tập thể trong quá trình lao động, sản xuất.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tăng trưởng kinh tế là nền tảng và mục đích của chủ nghĩa xã hội; còn “chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”(2). Người nhấn mạnh: “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”(3). Đặt mục tiêu phát triển kinh tế bên cạnh mục tiêu thực hiện công bằng xã hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện rõ lập trường của Chủ tịch Hồ Chí Minh, không vì sự phát triển kinh tế mà chấp nhận những bất công trong xã hội. Theo Người, “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải cải tạo xã hội cũ thành một xã hội mới, một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng”(4). Đây chính là nguyên tắc phân phối công bằng, kích thích nhân dân hăng hái tham gia hoạt động kinh tế, đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, nhờ nguyên tắc công bằng được thiết lập mà con người có động lực để phát huy cao độ khả năng của bản thân, để “ai cũng đưa hết tài năng của mình cống hiến cho xã hội”(5). Công bằng xã hội tạo điều kiện cho mọi thành viên trong xã hội không ngừng nâng cao mức sống và tự khẳng định mình. Mọi người hăng hái đầu tư vào nền kinh tế, mang lại sự giàu có cho bản thân, gia đình và toàn thể xã hội. Điều này có tính quyết định tới hiệu quả của sự phát triển kinh tế - xã hội. Đây là nguyện vọng chính đáng của nhân dân mà Nhà nước cần tạo mọi điều kiện để khuyến khích và phát huy.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không thể có thứ công bằng mà ở đó người làm ít hưởng nhiều; trái lại, làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu, không làm, không hưởng. Nói cách khác, đồng lương của người lao động phải luôn gắn chặt với hiệu quả của công việc. Chính sách tiền lương là một trong những động lực quan trọng của phát triển kinh tế và tiền lương cũng chính là thước đo của giá trị sức lao động mà người lao động đã bỏ ra. Do đó, nếu đồng lương không tương xứng với giá trị sức lao động thì những tư liệu sinh hoạt cần thiết của người lao động cũng không được đáp ứng. Điều này sẽ dẫn tới việc đánh mất động lực của quá trình sản xuất và nền kinh tế tất yếu sẽ bị ngưng trệ. Không chỉ vậy, tiền lương không thích hợp còn là một trong những nguyên nhân của rất nhiều căn bệnh, như tham ô, tham nhũng.
Thứ hai, chính sách khoán là một trong những động lực kinh tế đem lại lợi ích cho tập thể và người lao động. Khi nói về chế độ làm khoán, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng. Công nhân sản xuất ra nhiều vải, cố gắng nhiều, hưởng được nhiều; làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay. Nếu người công nhân nào thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu kỷ luật lao động thì làm cho mau nhưng không tốt; như vậy là không đúng và làm khoán phải nâng cao số lượng, nhưng luôn luôn phải giữ chất lượng”(6). Như vậy, Người đã xác định đúng đắn vai trò động lực kinh tế của chế độ khoán đối với việc phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu, chế độ làm khoán ở đây là chế độ khoán sản phẩm, chứ không phải khoán trắng. Bởi, trên thực tế, yếu tố chất lượng và số lượng phải luôn đi đôi với nhau, trong đó chất lượng là yếu tố hàng đầu.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giá trị của khoán sản phẩm không chỉ đem lại lợi ích về thu nhập, mà chủ yếu và sâu xa hơn là sự tiến bộ của công nhân và sự phát triển của nhà máy, đặc biệt, nó còn có ý nghĩa giáo dục tinh thần trách nhiệm và kỷ luật lao động. Nói cách khác, khoán là biện pháp tích cực để giáo dục và xây dựng tác phong công nghiệp cho người lao động. Và khoán là động lực kinh tế, vì nó có ý nghĩa khuyến khích tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế. Thực tiễn sản xuất cho thấy, vai trò động lực kinh tế và tính hiệu quả của chế độ khoán càng được thể hiện rõ nét, không chỉ trong sản xuất, trong hoạt động kinh tế, chế độ khoán còn áp dụng tốt trong các lĩnh vực hoạt động phi sản xuất, kể cả lĩnh vực hành chính trong giai đoạn hiện nay.
Thứ ba, ngoài chế độ tiền lương, khoán, thực hành tiết kiệm cũng là một động lực kinh tế quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kêu gọi mọi người phải thực hành tiết kiệm và phê phán mạnh mẽ thói xa hoa, lãng phí. Theo Người, lãng phí cũng là một căn bệnh, là tội lỗi đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Sự lãng phí gây ra rất nhiều tai hại trước mắt và hậu quả lâu dài. Người viết: “Đúng, chế độ chi tiêu của Nhà nước là một sự "ràng buộc", nhưng đó là một sự ràng buộc rất cần thiết và rất hay. Nó ràng buộc những kẻ phung phí, những người thích phô trương. Nó ràng buộc cả những người chỉ biết việc trước mắt mà không thấy việc lâu dài, chỉ biết việc của bộ phận mình mà không thấy việc chung của cả nước. Nhưng chính nhờ đó mà nó lại chặt xiềng, chắp cánh cho kinh tế nước ta tiến lên như ngựa thần trên con đường xã hội chủ nghĩa. Nó giúp chúng ta dành dụm từng đồng xu thành những số vốn lớn. Nó vít kín các lỗ thủng, các khe hở, không để của cải dành dụm của chúng ta bị hao hụt, phân tán. Như vậy mới dồn được phần lớn vốn của Nhà nước vào việc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa”(7).
Thứ tư, ngoài tiết kiệm để tích lũy vốn, phục vụ sản xuất, việc huy động vốn trong dân cũng là một trong những giải pháp hữu hiệu trong các động lực kinh tế. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng tiền dính với hoạt động của tất cả các ngành. Vì vậy, các ngành, các tổ chức kinh tế, các cơ quan nhà nước cùng toàn thể nhân dân phải biết sử dụng đồng tiền cho tốt… Một đồng vốn bỏ ra phải bảo đảm tăng thêm của cải cho xã hội, phải được luân chuyển nhanh, không để tồn đọng. Phải tích cực huy động tiền nhàn rỗi vào sản xuất. Khi nói về vấn đề này, Người yêu cầu: Huy động tiền nhàn rỗi trong dân là nhằm đưa vào sản xuất, thì đồng tiền ấy mới sinh sôi, nảy nở ngày càng thêm nhiều. Về góc độ kinh tế, con người muốn làm chủ nền kinh tế mới thì phải học cách quản lý và sử dụng tiền sao cho hợp lý, đem lại lợi ích cho công cuộc kiến thiết nước nhà, nâng cao mức sống của nhân dân… Pháp luật của Nhà nước là hành lang ngăn chặn các hành vi lãng phí, tham ô, tham nhũng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Thứ năm, đổi mới nền hành hành chính là động lực rất có ý nghĩa của phát triển kinh tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là nhà tư tưởng, nhà lý luận, vừa là kiến trúc sư trưởng vĩ đại của nền hành chính Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn cần đổi mới nền hành chính, cần tiến hành trên cả ba phương diện, đó là: Không ngừng đổi mới và ngày càng tăng cường tính chất “nhân dân” của bộ máy hành chính; xây dựng bộ máy của các cơ quan hành chính từ Trung ương đến địa phương luôn sát dân, gọn nhẹ và hiệu quả; kiên trì xây dựng một đội ngũ cán bộ hành chính có lòng trung thành, có đạo đức cách mạng và có kỹ năng hành chính tốt, ngày càng chính quy, hiện đại. Người chỉ rõ: Giảm đến mức tối thiểu số người làm việc hành chính, tăng cường lực lượng cho sản xuất trực tiếp. Bộ máy hành chính nhà nước càng phình ra bao nhiêu, càng trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà nước bấy nhiêu. Lượng tiền bỏ ra chi cho khối hành chính càng lớn, lượng tiền đưa vào sản xuất càng hạn chế. Đó là chưa kể sự thất thoát đồng tiền qua việc mua sắm những thứ đắt tiền không cần thiết, xây dựng trụ sở tiêu tốn nhiều tiền công quỹ. Cải cách hành chính là động lực kinh tế, vì cải cách hành chính như một giải pháp tiết kiệm sức người, sức của. Mấu chốt của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta như Người khẳng định: Đó là tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và tiến hành công nghiệp hóa nước nhà. Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm theo Người luôn là nhiệm vụ hàng đầu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cải cách hành chính thực chất cũng nhằm thực thi hai nhiệm vụ là tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Gián tiếp sản xuất cũng cần. Phải có người làm bàn giấy, tính toán, đánh máy, v.v. mới phục vụ cho người trực tiếp sản xuất, nhưng nhiều quá có bao nhiêu lãi chén hết. Bây giờ nhà máy số gián tiếp sản xuất còn nhiều quá”(8). Như vậy, việc giảm cán bộ gián tiếp của bộ máy quản lý thực chất là đổi mới nền hành chính, là công việc phải làm thường xuyên, để cho bộ máy nhà nước không rơi vào tình trạng quá cồng kềnh, gây lãng phí sức người, sức của, trở thành gọn nhẹ mà công việc vẫn được thực hiện một cách có hiệu quả.
Thứ sáu, thực hiện công bằng xã hội trong lưu thông phân phối. Theo Người, tổ chức lưu thông phân phối góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế. Hoạt động lưu thông phân phối không thể thiếu được trong nền kinh tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Rõ trong nền kinh tế quốc dân có ba mặt quan trọng: nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp. Ba mặt công tác này quan hệ mật thiết với nhau. Thương nghiệp là cái khâu trung gian gắn bó mật thiết nông nghiệp với công nghiệp. Nếu khâu thương nghiệp bị đứt thì không liên kết được nông nghiệp với công nghiệp, không củng cố được công nông liên minh”(9). Cũng như trong quá trình sản xuất, đồng vốn không được để ứ đọng thì quá trình lưu thông phân phối cũng không được để ách tắc. Như cơ thể con người, muốn khỏe mạnh thì phải thông khí huyết, bế là sinh bệnh tật, thứ bệnh của lưu thông phân phối gây bế tắc là bệnh đầu cơ tích trữ. Người phân tích: “Tệ hại phải chống là bọn đầu cơ tích trữ. Đảng, Chính phủ và mậu dịch cung cấp hàng cho dân, nhưng một số hàng không đến tay dân mà bị bọn đầu cơ lợi dụng như vải, thuốc tây, v.v.. Có thứ thuốc mậu dịch bán 500đ một viên mà bọn đầu cơ bán 2.500đ. Thật là nó lợi dụng đồng bào ốm để làm giàu, như thế rất đáng phản đối. Muốn chống bọn đầu cơ thì không riêng gì công an, công thương, mậu dịch mà tất cả cán bộ, công nhân, nhân dân đều phải chống cả, vì cán bộ, nhân dân có hàng triệu tai, mắt mới làm được để cho hàng hoá đến tay nhân dân”(10). Như vậy, nếu lưu thông phân phối tốt thì nền kinh tế khỏe, vững và sản xuất không ngừng phát triển.
Việc sử dụng một cách linh hoạt, hợp lý và có hiệu quả các động lực trong phát triển kinh tế không chỉ thúc đẩy đất nước phát triển, mà cao hơn nữa là tiến tới xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
Ý nghĩa trong tình hình hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được trình bày một cách giản dị, dễ hiểu nhưng mang giá trị to lớn trong công cuộc xây dựng và kiến thiết nước nhà.
Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã thu được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tiềm lực, vị thế và vai trò của đất nước ngày càng được củng cố và nâng cao trên trường quốc tế, đời sống của nhân dân đã có những chuyển biến tích cực. Song, trong quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, những hạn chế trong thực hiện các động lực kinh tế, như việc điều tiết chính sách kinh tế vĩ mô, cải cách thủ tục hành chính còn hạn chế, chưa kích thích được sự năng động, linh hoạt, sáng tạo trong phát triển kinh tế. Đặc biệt, việc chưa tận dụng tốt những tiềm năng và sức mạnh nội lực sẵn có, đang là bài toán nan giải cho các nhà hoạch định chính sách kinh tế, trong đó phải kể đến việc chúng ta chưa sử dụng một cách có hiệu quả các động lực phát triển kinh tế - xã hội. Chính việc này đã và đang là lực cản lớn đối với đất nước ta trên con đường xây dựng, đổi mới, phát triển và hội nhập. Vì vậy, tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực trong phát triển kinh tế là một việc làm rất có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay - khi mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ lực phát huy tiềm năng và sức mạnh của dân tộc để xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Muốn vậy, thời gian tới cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế; xây dựng nhà nước kiến tạo, phát triển, liêm chính và hành động thông qua cân bằng quyền lực trong bộ máy nhà nước và giải quyết quan hệ lợi ích phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường; tôn trọng và bảo vệ sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; thực hiện phân cấp quản lý với phân cấp ngân sách; tinh gọn và kiện toàn bộ máy.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước kiến tạo, phát triển, liêm chính là khâu đột phá chiến lược của Việt Nam trong tình hình hiện nay. Điều này càng trở nên cấp thiết hơn khi những động lực truyền thống cho tăng trưởng dường như đã được khai thác tới hạn. Trong quá trình đó, cần có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước và giải quyết quan hệ lợi ích phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường. Phân định vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước một cách rạch ròi. Chuyển vai trò của Nhà nước từ Nhà nước kiểm soát sang Nhà nước điều tiết và hỗ trợ một cách hiệu quả, với chức năng chính là phục vụ người dân và doanh nghiệp. Tăng cường trách nhiệm giải trình và thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước; tôn trọng và bảo vệ sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, quyền sở hữu tư nhân và quyền về tài sản. Hoàn thiện hệ thống khung pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân và doanh nghiệp. Mở rộng sự tham gia của doanh nghiệp và người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách của Nhà nước thông qua các tổ chức xã hội đại diện lợi ích; thực hiện phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương đi đôi với phân cấp ngân sách nhằm bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ được giao với nguồn lực tài chính. Thí điểm và thể chế hóa mô hình chính quyền đô thị hiện đại để khai thác tối đa các nguồn thu đặc thù tại các vùng đô thị phục vụ mục tiêu đô thị hóa; tăng cường năng lực, tinh gọn và kiện toàn hệ thống tổ chức chính trị và bộ máy hành chính các cấp. “Giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước, nhất là về thể chế, chính sách”(11). Kiểm soát tốt quyền lực, đề cao trách nhiệm giải trình và đạo đức công vụ. Xây dựng và thực thi nghiêm các chế tài đủ mạnh nhằm nhận diện, ngăn chặn và giải quyết hành vi cửa quyền, độc quyền, cơ chế “xin - cho”, lợi ích nhóm, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và toàn xã hội.
Thứ hai, cơ cấu lại nền kinh tế, tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Cơ cấu lại nền kinh tế: 1- Tập trung cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích và tạo các động lực chính sách, các động lực để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp, giải quyết nợ xấu trong lĩnh vực ngân hàng; 2- Đẩy mạnh phát triển ngành thương mại - dịch vụ, coi đây là ngành then chốt, tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động. Thúc đẩy hợp tác quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu kết hợp xây dựng thương hiệu quốc gia về các sản phẩm chủ lực của Việt Nam; 3- Trong công nghiệp, chú trọng phát triển một số ngành công nghiệp nền tảng (năng lượng, cơ khí chế tạo, vật liệu mới,...) và phát triển công nghiệp hỗ trợ, viễn thông và công nghệ cao, như tích cực, chủ động áp dụng linh hoạt các tiêu chuẩn, công cụ quản lý hiện đại vào quá trình sản xuất, cơ khí, chế tạo; trong đó, tập trung đầu tư và xây dựng cơ chế để phát triển các tập đoàn kinh tế lớn hoạt động trong lĩnh vực này, tạo nền tảng cho ngành công nghiệp, giúp hỗ trợ được doanh nghiệp Việt Nam tham gia mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; 4- Ngành nông, lâm, ngư nghiệp chú trọng nâng cao giá trị gia tăng, tham gia chuỗi giá trị từ khâu đầu vào, sản xuất và phân phối, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển kinh tế biển gắn với gìn giữ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; 5- Tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế số và xã hội số theo Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được phê duyệt ngày 31-3-2022: xác định nội dung trọng tâm của kinh tế số bao gồm kinh tế số công nghệ thông tin (ICT), kinh tế số nền tảng và kinh tế số ngành, với phương châm là chủ động làm chủ công nghệ, thúc đẩy đầu tư đưa công nghệ “Make in Viet Nam” vào hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Đây được xem là những giải pháp hiệu quả, tạo động lực để phát triển kinh tế số ở Việt Nam hiện nay.
Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế: Chủ động, tích cực đàm phán, ký kết gia nhập các thỏa thuận quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, tín dụng quốc tế, sở hữu trí tuệ, thuế quan, bảo vệ môi trường... Rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA)... Cần có chương trình hành động, kế hoạch thực hiện cam kết quốc tế và tận dụng các cơ hội hội nhập để tranh thủ nguồn lực bên ngoài và mở rộng thị trường. Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế.
Thứ ba, tăng huy động tổng đầu tư toàn xã hội cho phát triển, nhất là huy động nguồn vốn tư nhân tham gia đầu tư tạo động lực mới cho phát triển kinh tế và thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) một cách có chọn lọc và phát triển thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp lành mạnh, an toàn, hiệu quả - đây là kênh huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp, sẽ là yếu tố quyết định đến tăng trưởng. Chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp.
Thứ tư, phát triển khu vực tư nhân, đổi mới, năng động, sáng tạo; bảo đảm thể chế kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp tư nhân; bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, tạo môi trường đầu tư và cơ hội bỏ vốn; tăng cường hỗ trợ kỹ thuật nâng cao công nghệ và năng lực quản trị; thực hiện liên kết với doanh nghiệp FDI.
Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao thông qua cải cách toàn diện hệ thống giáo dục, đổi mới chương trình đào tạo theo hướng tăng thực hành; phát triển năng lực theo hướng đa kỹ năng; tăng cường sự kết nối giữa cơ sở đào tạo và thị trường; khuyến khích các doanh nghiệp lớn đầu tư vào giáo dục thông qua quan hệ đối tác công - tư./.
--------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 224
(2), (3), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 604, 415, 466 - 467
(4), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 241, 242
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 537 - 538
(8), (9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 534, 335, 585
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 44 - 45
ĐẶNG CÔNG THÀNH
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
Theo Tạp chí Cộng sản